Viêm đại trực tràng xuất huyết chuyển sang giai đoạn nghiêm trọng làm tăng nguy cơ chảy máu ồ ạt. Khi này, người bệnh có cảm giác đau quặn bụng, người toát mồ hôi, huyết áp tụt, tim đập nhanh, rối loạn tâm thần. Nguy cơ chảy nhiều máu khiến người bệnh không đáp ứng với điều trị nội khoa mà cần chỉ định phẫu thuật ngoại khoa cắt toàn bộ đại tràng.
Xuất huyết đại tràng lâu ngày khiến cơ quan này suy giảm. Nghiêm trọng hơn có thể gây mất chức năng đại tràng. Thậm chí tử vong nếu xuất huyết ồ ạt và không được khắc phục kịp thời. Ngoài ra, khi bị xuất huyết đại tràng còn ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ
Hội chẩn liên khoa với chẩn đoán, bệnh nhân H. "Xuất huyết tiêu hóa do vỡ giả phình động mạch vị tá tràng, thống nhất xử trí chụp và nút động mạch điều trị cầm máu các tạng số hóa xóa nền (DSA)". Ổ giả phình trước can thiệp. Ê-kíp can thiệp do Bs.CK1.
Viêm đại tràng xuất huyết là bệnh lý về đường tiêu hóa có thể bắt gặp ở mọi lứa tuổi. Nếu không được chữa trị kịp thời có thể để lại những biến chứng vô cùng nguy hiểm như thủng đại tràng, phình đại tràng nhiễm độc, thậm chí tử vong.
Xuất huyết đại tràng. Chảy máu ồ ạt ở đại tràng là nguy cơ dẫn đến tình trạng thiếu máu ở người bệnh. Đây được xem là cấp cứu y tế nghiêm trọng nếu không được can thiệp kịp thời có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.
aKTvKe. Dấu hiệu nhận biết xuất huyết đại tràng Đại tràng là đoạn cuối của đường tiêu hóa, có nhiệm vụ chính là hấp thụ nước, hình thành và chứa đựng phân trước khi chúng được đào thải ra ngoài cơ thể. Xuất huyết đại tràng là tình trạng niêm mạc đại tràng bị tổn thương, chảy máu. Để nhận biết xuất huyết đại tràng, bạn có thể dựa vào các dấu hiệu sau Triệu chứng lâm sàng Đi ngoài kèm máu, phân thường có màu cà phê, lỏng, nát. Ở mức độ nhẹ, xuất huyết đại tràng có thể kèm lẫn phân, khi bệnh nặng hơn, có thể chỉ thấy đi ngoài ra máu. Một số trường hợp có thể gặp hiện tượng tiêu chảy hoặc táo bón. Người bệnh có thể bị thiếu máu, cơ thể thường xuyên mệt mỏi, xanh xao, chán ăn, suy nhược cơ thể. Buồn nôn, dịch nôn thường chứa cả máu lẫn thức ăn, có mùi tanh đặc trưng do thức ăn chưa được tiêu hóa hết. Mỗi khi nôn thường đi kèm co thắt đại tràng. Đau vùng thượng vị. Cơn đau xuất hiện đột ngột, kéo dài, mệt mỏi, sốt nhẹ. Đau vùng thượng vị, dấu hiệu cảnh báo xuất huyết đại tràng Triệu chứng cận lâm sàng Nhìn chung, các triệu chứng của xuất huyết đại tràng thường dễ nhận biết. Tuy nhiên, để chẩn đoán chính xác hơn, người bệnh có thể được tiến hành thêm một số xét nghiệm khác như Nội soi toàn bộ trực tràng Việc nội soi giúp bác sĩ có thể chẩn đoán chính xác hơn vị trí xung huyết đại tràng cũng như phân loại được mức độ nghiêm trọng của bệnh. Chụp khung đại tràng Một số hình ảnh đại tràng có thể quan sát được khi chụp X-quang như hẹp đại tràng, phình giãn đại tràng,... Xét nghiệm máu Protein phản ứng C tăng, chỉ số hematocrit thường tăng, tốc độ máu lắng tăng,... Nguyên nhân gây xuất huyết đại tràng Nhìn chung, có nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến xuất huyết đại tràng. Tuy nhiên, nguyên nhân chủ yếu, chiếm phần lớn các trường hợp xuất huyết đại tràng là do viêm loét đại trực tràng. Tình trạng tổn thương niêm mạc trong viêm loét đại tràng diễn ra trong thời gian dài có thể dẫn tới viêm mạn tính, hình thành các điểm xuất huyết, gây chảy máu. Nếu không được điều trị, khắc phục kịp thời, các ổ loét có thể lan rộng ra, làm nặng thêm tình trạng xuất huyết. Cuộc sống hiện đại với nhịp sống nhanh, hình thành nhiều thói quen sinh hoạt không lành mạnh, thiếu khoa học là một trong những yếu tố thúc đẩy xuất huyết đại tràng như Áp lực, stress do công việc cường độ cao. Ăn uống không đúng giờ, hay bỏ bữa. Ăn nhiều thức ăn cay nóng, đồ chiên rán, thực phẩm đóng hộp không tốt cho sức khỏe. Thường xuyên thức khuya. Uống rượu, hút thuốc lá, sử dụng các chất kích thích, chất gây nghiện. Lạm dụng thuốc giảm đau,... Viêm loét đại trực tràng là nguyên nhân chính gây xuất huyết đại tràng >>> XEM THÊM Triệu chứng thường gặp của bệnh viêm đại tràng Xuất huyết đại tràng có nguy hiểm không? Nhiều người thắc mắc “Xuất huyết đại tràng có nguy hiểm không, có ảnh hưởng tới tính mạng không?”. Nhìn chung, đây là một bệnh lý nguy hiểm. Việc không điều trị xung huyết đại tràng kịp thời có thể dẫn tới suy nhược cơ thể, thiếu máu do mất máu quá nhiều. Ngoài ra, xuất huyết lâu ngày làm suy giảm chức năng và khả năng hoạt động của đại tràng, khiến cơ thể thường xuyên mệt mỏi, không hấp thu đủ các chất dinh dưỡng dẫn tới thiếu chất, chán ăn,... Người bệnh có thể gặp phải các biến chứng nguy hiểm như Chảy máu ồ ạt Ban đầu, các ổ viêm loét có thể chỉ gây ra các điểm xuất huyết nhỏ trong lòng đại tràng. Tuy nhiên, nếu các ổ loét không được khắc phục kịp thời có thể dẫn tới chảy máu kéo dài, gây đau đớn, tụt huyết áp, rối loạn tâm thần,... Việc này còn khiến người bệnh không đáp ứng với điều trị nội khoa, có nguy cơ phải cắt bỏ toàn bộ đại tràng và ảnh hưởng tới tính mạng. Nhiễm độc đại tràng Tình trạng viêm nhiễm, chảy máu trong thời gian dài có thể khiến hệ tiêu hóa sản sinh ra nhiều chất độc với cơ thể như oxy nitric. Hàm lượng lớn oxy nitric tích tụ trong đường tiêu hóa gây ngộ độc cấp tính, khiến đại tràng phình giãn nghiêm trọng. Những triệu chứng điển hình của phình giãn đại tràng như Sốt cao, tụt huyết áp, tăng nhịp tim,... Người bệnh cần được đưa đi cấp cứu kịp thời để tránh thủng đại tràng, tử vong. Ung thư đại tràng Nhìn chung, một tỉ lệ lớn người xuất huyết đại tràng biến chứng thành ung thư. Theo thống kê, số người viêm đại tràng xuất huyết có nguy cơ ung thư đại tràng sau 10 năm. Việc quan trọng là cần nhận biết sớm các dấu hiệu ban đầu của viêm đại tràng xuất huyết như Môi khô, thiếu máu, gầy sút cân, chán ăn,... để điều trị kịp thời, tránh nguy cơ biến chuyển thành ung thư. Người bị xuất huyết đại tràng sẽ có nguy cơ cao bị ung thư Điều trị xuất huyết đại tràng Với lối sống và sinh hoạt hiện đại, ngày càng nhiều người bị xuất huyết trực tràng, đại tràng. Tuy nhiên, việc điều trị sao cho đúng thì không phải ai cũng biết. Hiện nay, việc điều trị bệnh chủ yếu đi vào ba vấn đề chính Xử lý tại chỗ các vết xung huyết, điều trị y tế xuất huyết đại tràng và chăm sóc, nâng cao sức khỏe cho người bệnh sau điều trị. Xử lý tại chỗ xung huyết đại tràng Khi có hiện tượng xuất huyết trực tràng, đại tràng, người bệnh nên ngồi yên một chỗ, tránh di chuyển. Việc ngồi nghỉ ngơi, nằm yên một chỗ khoảng 15-20 phút, tránh mọi tác động đến đại tràng từ đó giảm lượng máu chảy. Đồng thời bổ sung nước và chất điện giải nếu người bệnh nôn, đi đại tiện ra máu nhiều. Điều trị y tế xuất huyết đại tràng Sau khi tình trạng xung huyết đại tràng đã được khắc phục tạm thời, cần nhanh chóng đưa người bệnh tới các cơ sở y tế để được điều trị kịp thời. Tùy vào tình trạng bệnh mà mỗi người mà bác sĩ sẽ lựa chọn phương pháp điều trị bảo tồn hoặc can thiệp ngoại khoa. Điều trị bảo tồn Điều trị bảo tồn xuất huyết đại tràng thường được chỉ định đối với các trường hợp bệnh ở mức độ nhẹ tới trung bình. Một số biện pháp có thể được áp dụng như Truyền máu nếu người bệnh chảy máu quá nhiều dẫn tới thiếu máu. Truyền nước, truyền dịch, vitamin để bổ sung dinh dưỡng, năng lượng bị thiếu hụt. Sử dụng một số loại thuốc tây để cầm máu, ngăn ngừa chảy máu và thúc đẩy vết thương chóng lành hơn. Điều trị ngoại khoa Nếu người bệnh chảy nhiều máu, khó có thể phục hồi bằng các biện pháp điều trị nội khoa, các bác sĩ có thể chỉ định can thiệp điều trị ngoại khoa cho người bệnh. Mổ đại tràng có thể được áp dụng cho một số trường hợp bị thủng đại tràng, polyp đại tràng, ung thư đại tràng. Tuy nhiên, biện pháp can thiệp ngoại khoa cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ như mất máu, hôn mê trong và sau quá trình phẫu thuật bởi vậy chỉ được áp dụng khi thật sự cần thiết. Phẫu thuật thường được áp dụng cho các trường hợp xuất huyết đại tràng nghiêm trọng >>> XEM THÊM Bệnh viêm đại tràng có chữa khỏi được không? Xuất huyết trực tràng, đại tràng chăm sóc sao cho đúng? Bên cạnh phương pháp điều trị nội khoa và ngoại khoa, người bệnh cũng cần được chăm sóc bổ trợ sau đó và duy trì các thói quen tốt như Chế độ dinh dưỡng đầy đủ các nhóm chất, nên tránh ăn đồ cứng, tăng cường ăn thức ăn lỏng, dễ tiêu hóa để tránh áp lực lên đại tràng. Thường xuyên kiểm tra nhịp tim, huyết áp và các triệu chứng thường gặp của bệnh. Nếu người bệnh xuất hiện các dấu hiệu bất thường, cần báo ngay cho bác sĩ để được điều trị kịp thời. Nên ăn nhiều bữa trong ngày, tránh ăn quá no trong một bữa. Tốt nhất, nên chia ra khoảng 5-6 bữa/ ngày để tránh tạo áp lực lớn lên đại tràng và tăng cường hấp thu dưỡng chất cho cơ thể. Tăng cường bổ sung nước cho cơ thể, tránh tình trạng mất nước, tiêu chảy, nôn mửa. Sử dụng ImmunebioV vách tế bào vi khuẩn Lactobacillus rhamnosus và cao Sử quân tử để tăng cường miễn dịch cho niêm mạc đại tràng, điều hòa và kích thích hệ tiêu hóa, giảm các triệu chứng đau bụng, đầy hơi, tiêu chảy, táo bón. Đồng thời giúp phục hồi niêm mạc đại tràng bị tổn thương, từ đó ngăn chặn xuất huyết đại tràng hiệu quả, an toàn. Hy vọng, bài viết đã cung cấp đến bạn đọc những thông tin hữu ích về hiện tượng xuất huyết đại tràng để từ đó lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp với bản thân. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào, hãy liên hệ với chuyên gia hoặc để lại bình luận phía dưới, chúng tôi sẽ giải đáp thắc mắc của bạn sớm nhất. Nguồn
Xuất huyết đại tràng là tình trạng bệnh lý đáng báo động, tiềm ẩn nguy cơ gây phình giãn, thủng dạ dày, thậm chí ung thư hóa. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người xem nhanh 11. Xuất huyết đại tràng là gì?2. Các biến chứng của bệnh xuất huyết đại Phình giãn đại Chảy máu ồ ạt tại đại Thủng đại Xuất huyết đại tràng biến chứng ung thư hóa3. Biểu hiện của Đau bụng là triệu chứng thường thấy của xuất huyết đại Rối loạn đại tiện, thay đổi tính chất Sốt Triệu chứng ngoài tiêu Triệu chứng toàn thân4. Các phương pháp điều trị xuất huyết đại tràng1. Xuất huyết đại tràng là gì?Xuất huyết đại tràng hay viêm đại tràng xuất huyết là bệnh mạn tính, có tính chất tự miễn. Tình trạng này xảy ra khi lớp niêm mạc và dưới niêm mạc vùng đại tràng bị tổn thương gây loét và chảy máu. Bệnh chủ yếu xảy ra ở trực tràng và giảm dần cho đến đại tràng ảnh nội soi tình trạng chảy máu tại đại tràngNgười bệnh mắc viêm đại tràng xuất huyết tập trung chủ yếu ở nhóm tuổi từ 15 – 40 với tỷ lệ tương đương ở cả 2 giới. Bệnh cũng có tỷ lệ mắc mới ngày càng gia tăng. Cứ dân thì có 50 người phát hiện tình trạng xuất huyết đại tràng và tỷ lệ mắc mới là 5/ người/ năm. Về nguyên nhân dẫn đến bệnh lý này đến nay vẫn chưa được xác định rõ ràng. Tuy nhiên có thể bao gồm các yếu tố nguy cơ như– Yếu tố di truyền– Yếu tố nhiễm khuẩn– Thay đổi miễn dịch của cơ thể– Môi trường sống– Tâm sinh lý người bệnh2. Các biến chứng của bệnh xuất huyết đại tràngBệnh nếu chẩn đoán muộn, không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng như Phình giãn đại tràngThường xảy ra ở giai đoạn xuất huyết đại tràng nặng, viêm toàn bộ đại tràng. Sự giãn nở bất thường này khiến nhu động ruột bị tê liệt, khó khăn trong việc đẩy phân di chuyển để đào thải ra ngoài. Lâu dần, lượng phân tích tụ lại khiến đại tràng phình ra. Đây là trường hợp có nguy cơ biến chứng thủng đại tràng nếu không được điều bệnh đối mặt với các vấn đề sức khỏe như viêm ruột, tắc ruột và nghiêm trọng nhất là thủng Chảy máu ồ ạt tại đại tràngChảy máu là một trong những dấu hiệu đặc trưng của bệnh viêm đại tràng xuất huyết. Tuy nhiên ở các đợt tiến triển, người bệnh thậm chí có thể thấy tình trạng chảy máu diễn ra nặng hơn. Biểu hiện ở việc phân đi ra có màu đỏ tươi kèm tình trạng mất máu khiến cơ thể mệt mỏi, suy kiệt, hoa mắt chóng mặt… Người bệnh thậm chí có nguy cơ tử vong do xuất huyết trầm Thủng đại tràngTrường hợp viêm đại tràng xuất huyết dẫn đến biến chứng thủng đại tràng, nếu không được cấp cứu kịp thời có thể dẫn tới viêm phúc mạc và rất dễ tử đại tràng đặc trưng bởi các cơn đau rất mạnh, cảm giác như dao đâm, không thể làm dịu cơn đau bằng bất cứ giải pháp can thiệp tại chỗ nào. Người bệnh cũng có thể bị tụt huyết áp, hạ thân nhiệt, toát mồ hôi, cảm thấy mất hết sức lực…Lúc này, cần nhanh chóng đưa người bệnh đến ngay cơ sở y tế gần nhất để được cấp cứu, tránh nguy hiểm đến tính Xuất huyết đại tràng biến chứng ung thư hóaTheo các nghiên cứu chỉ ra, bệnh nhân mắc viêm đại tràng xuất huyết có tỷ lệ ung thư hóa cao đặc biệt nếu bệnh kéo dài. Tỷ lệ mắc ung thư sau 10 năm là 2% và có thể lên đến 18% sau 30 năm. Lúc này, phẫu thuật cắt bỏ vẫn là lựa chọn duy nhất có khả năng chữa trị tận gốc cho bệnh nhân ung thư đại tràng. Tuy nhiên, khi tế bào ung thư đã di căn tới nhiều cơ quan, việc điều trị có thể không mang lại nhiều hy vọng cho người bệnh. Do đó, để ngăn chặn biến chứng, người bệnh cần được kiểm tra, tầm soát ung thư đường tiêu hóa định kỳ ít nhất 1 lần/ Biểu hiện của bệnhXuất huyết đại tràng tùy theo mức độ tổn thương sẽ biểu hiện các triệu chứng khác nhau. Tuy nhiên có thể bao gồm các dấu hiệu như Đau bụng là triệu chứng thường thấy của xuất huyết đại tràngCơn đau thường tập trung ở vùng bụng dưới và hố chậu, có khi đau lan tỏa ra khắp bụng. Đau có thể từ nhẹ tới nặng, từ âm ỉ đến dữ dội, làm bệnh nhân phải đi đại tiện ngay. Người bệnh cũng có triệu chứng mót rặn khi đại không được điều trị, các cơn đau đại tràng có thể khiến người bệnh khó chịu, đau đớn, ảnh hưởng đến việc học tập, làm việc, tận hưởng các hoạt động hàng ngày. Người bệnh có thể kiểm soát cơn đau thông qua sử dụng thuốc và điều chỉnh chế độ ăn Rối loạn đại tiện, thay đổi tính chất phânThường đi kèm với các cơn đau bụng, biểu hiện ở việc đi phân thất thường, khi rắn, khi lỏng. Phân thường nát, không thành khuôn, có màu đen hoặc kèm theo máu. Tần suất đi đại tiện có thể từ 2 – 6 lần/ ngày tùy theo tình trạng bệnh. Người bệnh có cảm giác mót đại tiện ngay cả khi vừa đi Sốt Tình trạng này hiếm khi xảy ra, thường xuất hiện ở giai đoạn bệnh tiến triển nặng hoặc có biến chứng. Sốt có thể xuất hiện cùng với biểu hiện rối loạn đại Triệu chứng ngoài tiêu hóaViêm đại tràng xuất huyết trong thời gian dài không được điều trị có gây ảnh hưởng đến các cơ quan khác ngoài ruột, có thể kể đến các triệu chứng nhưĐau khớp Thường xuất hiện cùng các đợt bùng phát xuất huyết đại tràng. Khi tình trạng viêm thuyên giảm, triệu chứng này cũng dần biến màng bồ đào viêm mống mắt Ảnh hưởng trực tiếp từ tình trạng viêm đại tràng xuất huyết nhưng có thể xuất hiện độc lập, không kèm các triệu chứng tại tiêu hóa. Viêm màng bồ đào là một trong những triệu chứng ngoài tiêu hóa xuất hiện ở người bệnh viêm đại tràng xuất huyết lâu nămViêm xơ đường mật 80% các bệnh nhân được phát hiện viêm xơ đường mật tiên phát đều có tiền sử viêm loét đại tràng, bao gồm viêm đại tràng xuất huyết. Triệu chứng này có thể xuất hiện trước hoặc cùng lúc với viêm đại tràng, hoặc thậm chí sau phẫu thuật cắt đại tràng 20 Triệu chứng toàn thânBao gồm mệt mỏi, thiếu máu, chán ăn, sút cân, phù do suy dinh dưỡng. Các triệu chứng ngoài đường tiêu hóa của bệnh cũng xuất hiện khi người bệnh có các triệu chứng toàn Các phương pháp điều trị xuất huyết đại tràngNgay khi nghi ngờ các triệu chứng xuất huyết đại tràng, người bệnh cần đến cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị kịp thời, chặn các biến chứng nguy hiểm. Bệnh nhân cũng lưu ý không nên tự ý điều trị tại nhà mà không có chỉ định của bác sĩ. Dùng thuốc không đúng có thể khiến bệnh nặng hơn, hoặc xảy ra tình trạng kháng thuốc gây khó khăn trong điều trị dứt điểm ở giai đoạn nhẹ có thể điều trị nội khoa và theo dõi định kỳ. Đây là phương pháp tiện lợi và đem lại hiệu quả cao. Tuy nhiên người bệnh cần tuyệt đối tuân thủ chỉ định của bác sĩ khi sử dụng thuốc. Trường hợp đại tràng chảy máu nặng, bệnh nhân có thể được truyền máu để tránh thiếu máu dẫn đến tụt huyết áp. Bên cạnh đó, xây dựng chế độ ăn uống khoa học cũng có thể mang tới hiệu quả tích cực trong điều trị bệnh. Người bệnh nên lựa chọn các loại thức ăn mềm, dễ tiêu hóa. Tránh sử dụng các thực phẩm nhiều dầu mỡ, chua, cay, thức uống có cồn…Nếu bệnh nặng, phẫu thuật là biện pháp duy nhất để điều trị khỏi bệnh hoàn toàn. Tuy nhiên, việc điều trị ở giai đoạn này sẽ trở nên khó khăn, phức tạp và tốn kém hơn. Xuất huyết đại tràng là không phải bệnh hiểm nghèo, song luôn tiềm ẩn khả năng biến chứng nguy hiểm, ảnh hưởng đến sức khỏe của người bệnh. Kiểm tra tiêu hóa định kỳ, nội soi đại tràng 6 tháng 1 lần là giải pháp tối ưu để phòng và điều trị bệnh, đảm bảo chất lượng cuộc sống.
Bài viết bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Viễn Phương - Khoa Khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Central Park Viêm loét đại trực tràng chảy máu ảnh hưởng đến hầu hết mọi lứa tuổi từ 15 đến 35 tuổi. Để thăm khám và đưa ra các phương pháp điều trị tốt, bạn cần thực hiện các xét nghiệm chẩn đoán theo yêu cầu của bác sĩ. 1. Viêm loét đại tràng là gì? Viêm loét đại tràng UC là một loại bệnh viêm ruột IBD. IBD bao gồm một nhóm các bệnh ảnh hưởng đến đường tiêu xảy ra khi lớp niêm mạc của ruột già còn gọi là ruột kết, trực tràng hoặc cả hai bị trạng viêm này tạo ra các vết loét nhỏ gọi là loét trên niêm mạc ruột kết. Nó thường bắt đầu ở trực tràng và lan dần lên trên. Tình trạng viêm khiến ruột di chuyển nhanh chóng và làm rỗng ruột thường xuyên. Khi các tế bào trên bề mặt của niêm mạc ruột của bạn chết đi, các vết loét hình thành. Các vết loét có thể chảy máu, chảy dịch nhầy và khi bệnh này ảnh hưởng đến mọi người ở mọi lứa tuổi, hầu hết mọi người được chẩn đoán trong độ tuổi từ 15 đến 35. Sau tuổi 50, có sự gia tăng nhỏ ở nam giới trong chẩn đoán tìm hiểu rõ hơn về cơ chế bệnh sinh cùng các biểu hiện lâm sàng của bệnh viêm loét đại trực tràng chảy máu, tham khảo bài viết sau đây. Xét nghiệm Các xét nghiệm ban đầu đối với bệnh nhân viêm loét đại tràng chảy máu bao gồm công thức máu, điện giải đố, xét nghiệm đánh giá chức năng gan thận, nồng độ sắt, vitamin D, protein phản ứng C CRP và calprotectin trong phân. Các xét nghiệm miễn dịch và xét nghiệm vi sinh nhằm loại trừ C. difficile cũng cần được tiến hành. Các chỉ số viêm Ở những bệnh nhân viêm loét đại tràng chảy máu mức độ nhẹ hoặc trung bình, các chỉ số viêm có thể vẫn ở giới hạn bình thường. Trong kết quả, công thức máu có thể thấy tăng tiểu cầu do đáp ứng viêm mạn tính hoặc thiếu máu ở nhiều mức độ. Nếu thấy tăng bạch cầu cần tìm chú ý đến biến chứng nhiễm trùng. Trong viêm loét đại tràng chảy máu, trừ nhóm bệnh nhân chỉ có tổn thương khu trú ở trực tràng, chỉ số CRP có tương quan với mức độ nặng trên lâm sàng. Tăng CRP cũng có tương quan với tăng tốc độ máu lắng, thiếu máu và tình trạng giảm albumin. Đây được coi là một dấu ấn tiên lượng trong những trường hợp nặng, diễn biến cấp tính. CRP trên 10 mg/l sau 1 năm ở những bệnh nhân viêm toàn bộ đại tràng tiên lượng nguy cơ phải phẫu thuật tăng. Tuy nhiên, cả hai chỉ số CRP và tốc độ máu lắng đều không đủ đặc hiệu để chẩnđoán phân biệt viêm loét đại tràng chảy máu với các nguyên nhân gây viêm đại tràng do nhiễm khuẩn hoặc nguyên nhân khác. Xét nghiệm calprotectin trong phân Một đặc điểm của các bệnh lý viêm ruột mạn tính trong đó có viêm loét đại tràng chảy máu là sự thâm nhập của các bạch cầu trung tính vào khe tuyến của biểu mô ruột và lớp màng đệm ở biểu mô. Do vậy trong phân sẽ có các thành phần của bạch cầu. Nếu không có sự xuất hiện của bạch cầu trong phân, có thể loại trừ các bệnh lý viêm ruột mạn tính và đi theo các hướng chẩn đoán cạnh việc xét nghiệm trực tiếp tìm bạch cầu trong phân bằng xanh methylen, hiện nay đã có một số xét nghiệm phân giúp phát hiện bạch cầu trong phân và được ứng dụng để đánh giá mức độ nặng của bệnh lý bệnh viêm ruột trên lâm sàng. Calprotectin có nguồn gốc từ các tế bào bạch cầu hạt, là protein gắn canxi được ứng dụng như một dấu ấn chẩn đoán cho các trường hợp tiêu chảy do bệnh lý viêm đường ruột. Ngoài ra chỉ số này cũng phản ánh phần nào “mức độ viêm” của đại tràng, do vậy có thể được ứng dụng như một phương pháp theo lối không xâm nhập trong quá trình điều tự như vậy, lactoferrin - một protein từ tế bào bạch cầu đa nhân trung tính đã chứng minh được có khả năng giúp chẩn đoán phân biệt giữa bệnh viêm ruột và hội chứng ruột kích thích. Xét nghiệm Calprotectin trong phân giúp đánh giá mức độ nặng của bệnh lý viêm ruột lâm sàng Xét nghiệm vi sinh Theo khuyến cáo của ECCO năm 2017, cần làm các xét nghiệm vi sinh để loại trừ và Cytomegalovirus CMV mỗi đợt bệnh bùng phát. Nhiễm C. difficile hiện đang trở thành một vấn đề sức khỏe đáng lo ngại do tỉ lệ tử vong cao. Vì thế việc tầm soát loại trừ C. difficile cần được tiến hành nếu bệnh nhân kháng trị hoặc có đợt bệnh bùng tái hoạt động của CMV có thể xảy ra ở bệnh nhân viêm loét đại tràng chảy máu sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch. Mặc dù sự tái hoạt động của CMV không phải nguyên nhân gây đột bệnh bùng phát, nhiễm mới CMV lại có thể làm bệnh nặng lên hoặc kháng trị. Do vậy, những bệnh nhân đang điều trị thuốc ức chế miễn dịch bị bùng phát triệu chứng, cần phải được kiểm tra và loại trừ nhiễm nghiệm mô bệnh học hoặc nhuộm hóa mô miễn dịch là phương pháp tối ưu hơn so với sử dụng xét nghiệm PCR trong máu. Dấu ấn sinh học Hai dấu ấn sinh học được sử dụng phổ biến nhất là kháng thể kháng bào tương quanh nhân bạch cầu trung tính perinucluear anti-neutrophilcytoplasmic antibodies - DANCAS và kháng thể kháng Saccharomyces cerevisiae anti-Saccharomyces cerevisiaeantibodies - ASCAs. Theo các nghiên cứu, tỷ lệ phát hiện được pANCAS ở bệnh nhân viêm loét đại tràng chảy máu lên đến 65% trong khi tỉ lệ kháng thể này dương tính ở bệnh nhân Crohn dưới 10%. Ngược lại, ASCA đặc hiệu với các tổn thương ở ruột non do Crohn hơn với tỉ lệ dương tính lên đến 40 - 60% các trường hợp. Tuy nhiên tỷ lệ ASCA dương tính ở các bệnh lý tổn thương ruột non khác như Celiac cũng khá cao 40 - 60%.Bên cạnh là việc giúp phân biệt giữa bệnh viêm ruột và các bệnh lý đường ruột khác, các dấu ấn sinh học này còn là công cụ để tiên lượng trong quá trình điều trị. Nồng độ pANCA cao có tương quan với nguy cơ viêm hậu môn nhân tạo và miệng nối hồi tràng - hậu môn sau khi cắt toàn bộ đại tràng. Một số dấu ấn sinh học khác cũng đang được nghiên cứu ở bệnh nhân bệnh viêm ruột như kháng thể với lớp màng ngoài của lớp vỏ outer membrane cell wall hay J2 peptide là một chuỗi RNA có nguồn gốc liên quan đến Pseudomonas fluorescens. Cả hai dấu ấn này được chứng minh có liên quan đến Crohn nhiều hơn viêm loét đại tràng chảy máu và không thật sự hiệu quả trong việc phân biệt các type của bệnh viêm ruột. Việc ứng dụng các dấu ấn sinh học trong phân biệt giữa viêm loét đại tràng chảy máu và Crohn hiện vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt ở nhóm bệnh nhân viêm đại tràng thể không điển hình. Nếu chỉ sử dụng PANCA dương tính đơn thuần không giúp phân biệt giữa hai bệnh lý này nhưng phối hợp thêm ASCA có thể nâng tỉ lệ chẩn đoán chính xác lên. Những bệnh nhân có pÀNCA+ASCA- thường gặp ở viêm loét đại tràng chảy máu hơn với độ nhạy từ 44 - 58% và độ đặc hiệu từ 81 - 98% trong khi pANCA-ASCA+ hay gặp trong Crohn có tổn thương ở ruột non hơn với độ nhạy từ 30 - 64% và độ đặc hiệu từ 92 - 97%. Trong tương lai, sự phối hợp thêm Ompc và 12 peptide được kỳ vọng giúp phân biệt đượcgiữa viêm loét đại tràng chảy máu và Crohn. Nội soi tiêu hóa Nội soi đại tràng Chỉ địnhHướng dẫn của ECCO năm 2017 đã khuyến cáo nội soi đại tràng có kiểm tra cả tổn thương trong hồi tràng, là phương pháp thăm dò giúp khẳng định chẩn đoán đối với các bệnh lý bệnh viêm viêm loét đại tràng chảy máu, tổn thương trên nội soi ban đầu là ở vùng trực tràng gần sát với ống hậu môn sau đó lan rộng dần lên trên với tính chất liên tục, đồng tâm. Ranh giới giữa vùng tổn thương và vùng niêm mạc bình thường rõ. Đôi khi có thể gặp hình ảnh tổn thương một vùng ở manh tràng hoặc không tổn thương ở trực tràng đòi hỏi phải tiến hành đánh giá tổn thương ở ruột giống như trong Crohn, để đánh giá chính xác tổn thương đối với viêm loét đại tràng chảy máu, cần sinh thiết nhiều mảnh từ đoạn cuối hồi tràng và năm đoạn đại tràng đại tràng lên, đại tràng ngang, đại tràng xuống, đại tràng sigma, trực tràng. Lý tưởng nhất là mỗi đoạn bấm hai mảnh sinh thiết bao gồm cả vùng niêm mạc bình thường và vùng tổn thương. Khi kết quả nội soi và mô bệnh học không rõ ràng, có thể tiến hành nội soi đại tràng sinh thiết lại kết hợp thêm với các thăm dò khác như nội soi đường tiêu hóa trên nếu bệnh nhân có triệu chứng, nội soi viên nang hoặc nội soi ruột non. Đối với những trường hợp bệnh tái phát, kháng trị, xuất hiện triệu chứng mới hoặc cân nhắc chỉ định phẫu thuật, cần nội soi đánh giá lại mức độ tổn giá vị trí tổn thươngTrong phân loại Montreal, dựa vào vị trí tổn thương sẽ chia ra các thể Tổn thương tại trực tràng, tổn thương ở đại tràng trái và tổn thương lan rộng. Theo thời gian, phân bố vị trí tổn thương có thể thay đổi, thường có xu hướng lan từ trực tràng lên các đoạn đại tràng phía trên. Một nghiên cứu đã ghi nhận có 28% các trường hợp sau 10 năm sẽ có tiến triển tổn thương lan rộng hơn so với ban soi đường tiêu hóa trênCác tổn thương đường tiêu hóa trên trong viêm loét đại tràng chảy máu không hay gặp do vậy chỉ định nội soi đường tiêu hóa trên đặt ra khi bệnh nhân có triệu số báo cáo đã ghi nhận tổn thương ở đường tiêu hóa trên ở bệnh nhân viêm loét đại tràng chảy máu, tuy nhiên các tiêu chuẩn để chẩn đoán tổn thương đường tiêu hóa trên có liên quan đến viêm loét đại tràng chảy máu cho đến nay vẫn chưa được thống nhất. Nội soi đại tràng là phương pháp thăm dò giúp chẩn đoán bệnh lý viêm ruột Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác âm Viêm loét đại tràng chảy máu là bệnh lý trong đó tổn thương viêm chủ yếu ở lớp niêm mạc và hay gặp ở trực tràng do vậy sử dụng các phương pháp chẩn đoán hình ảnh để đánh giá gặp nhiều khó nhiên, siêu âm được coi như một công cụ chẩn đoán đáng tin cậy giúp đánh giá mức độ lan rộng và hoạt động của bệnh, đặc biệt trong những trường hợp nội soi có chống chỉ định hoặc không thể soi được hết toàn bộ đại tràng. Đầu tiên có thể sử dụng đầu dò Convex có tần số 3,5 - 5 MHz để đánh giá chung sau đó chuyển sang đầu dò linear có tần số 4 - 13 MHz để kiểm tra chi tiết các lớp của thành ruột. Có thể đi từ thượng vị xuống hoặc đi từ hố chậu trái vị trí của đại tràng sigma sau đó kiểm tra đến đại tràng, đoạn cuối hồi tràng, ruột thừa, ruột non và lên đến dạ dày. Nếu bệnh nhân có đau khu trú ở một vị trí, cần kiểm tra kỹ hơn. Chụp CLVT/CHT Cho đến nay, trong hướng dẫn của ECCO cũng như đồng thuận giữa ECCO và ESGAR vẫn chưa đưa ra được khuyến cáo cụ thể về chỉ định và giá trị của chụp CLVT ổ bụng trong đánh giá mức độ lan rộng và hoạt động bệnh của viêm loét đại trực tràng chảy máu. Có thể sử dụng kĩ thuật thụt nước vào đại tràng trong chụp CLVT có tiêm thuốc để đầu mũi tên - dày thành đại tràng Sigma, mũi tên nhỏ - tổn thương gia quan sát tính chất ngấm thuốc của thành ruột và tổ chức mở quanh đại tràng rõ hơn. Tuy nhiên, không chỉ định được phương pháp này khi đang nghi ngờ bệnh nhân có phình giãn đại tràng nhiễm độc, thủng hoặc viêm phúc viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là một trong những bệnh viện không những đảm bảo chất lượng chuyên môn với đội ngũ y bác sĩ, hệ thống trang thiết bị công nghệ hiện đại mà còn nổi bật với dịch vụ khám, tư vấn và chữa bệnh toàn diện, chuyên nghiệp; không gian khám chữa bệnh văn minh, lịch sự, an toàn và tiệt trùng tối đa. Khách hàng khi chọn thực hiện các xét nghiệm tại đây có thể hoàn toàn yên tâm về độ chính xác của kết quả xét nghiệm. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Bài viết tham khảo nguồn NagreF, Gionchetti PR, Eliakim R.2017. Third European Evidence-based consensus on Diagnosis and Management of Ulcerative Colitis, De Dombal 1968, Ulcerative colitis definition, historical background, aetiology, diagnosis, naturel history and local complications, Postgrad Med, Basler RW và Dubin HV 1976. Ulcerative colitis and the skin. XEM THÊM Điều trị viêm loét đại trực tràng gây chảy máu Bệnh viêm loét đại tràng chảy máu được tìm ra như thế nào? Biểu hiện ngoài đường tiêu hóa của bệnh viêm loét đại tràng chảy máu Dịch vụ từ Vinmec
Nếu bạn đi vệ sinh xong và thấy một lượng nhỏ máu trong bồn cầu, trên giấy vệ sinh hoặc trong phân của bạn, thì rất có thể bạn đang bị xuất huyết đại tràng. Bệnh trĩ thường là nguyên nhân chính gây chảy máu trực tràng, nhưng cũng có nhiều lý do khác có thể xảy ra. Hãy cùng Docosan tìm hiểu thêm về lý do tại sao bạn có thể bị chảy máu đại tràng và phải làm gì nếu nó xảy ra trong bài viết dưới đây nhé! Tóm tắt nội dung1 Bệnh xuất huyết đại tràng là gì?2 Triệu chứng xuất huyết đại tràng3 Xuất huyết đại tràng có nguy hiểm không?4 Nguyên nhân gây xuất huyết đại tràng5 Xuất huyết đại tràng được chẩn đoán như thế nào?6 Điều trị xuất huyết đại Các biện pháp khắc phục tại Điều trị y tế Là một triệu chứng của nhiều bệnh lý khác nhau, chảy máu đại tràng có thể khác nhau từ nhẹ đến nghiêm trọng như ung thư đại trực tràng. Nếu bạn đang bị chảy máu đại tràng, bạn có thể thấy máu theo một số cách khác nhau như trên giấy vệ sinh khi bạn lau, trong nước bồn cầu hoặc trong phân của bạn. Nó có thể có nhiều màu khác nhau, từ đỏ tươi đến nâu sẫm đến đen. Màu máu bạn nhìn thấy thực sự có thể cho biết máu chảy ra từ đâu. Đôi khi, chảy máu đại tràng không thể nhìn thấy bằng mắt thường và chỉ có thể nhìn thấy qua kính hiển vi. Loại chảy máu này thường được tìm thấy khi xét nghiệm mẫu phân trong phòng thí nghiệm. Triệu chứng xuất huyết đại tràng Dấu hiệu xuất huyết đại tràng rõ ràng nhất là máu đỏ trên khăn giấy vệ sinh hoặc có thể nhìn thấy máu hoặc phân có màu đỏ trong bồn cầu. Tuy nhiên, điều quan trọng là bạn phải chú ý đến màu sắc của máu và màu phân của bạn vì nó có thể chỉ ra những điều khác nhau Máu đỏ tươi cho thấy chảy máu ở đâu đó trong đường tiêu hóa dưới, chẳng hạn như ruột kết hoặc trực có màu đỏ sẫm hoặc màu rượu vang có thể cho thấy xuất huyết ở ruột non hoặc phần đầu của đại có màu đen, hắc ín có thể cho thấy xuất huyết từ dạ dày hoặc phần trên của ruột non. Các triệu chứng khác liên quan đến chảy máu trực tràng bao gồm Ngất xỉuCảm thấy chóng mặtĐau trực tràngĐau bụng hoặc chuột rút Xuất huyết đại tràng có nguy hiểm không? Trong một số trường hợp, chảy máu đại tràng có thể là một triệu chứng nhỏ của một bệnh lý có thể dễ dàng điều trị. Chẳng hạn như bệnh trĩ có thể khiến bạn bị chảy máu đại tràng. Điều này thường không kéo dài và bệnh trĩ thường dễ điều trị. Tuy nhiên, chảy máu đại tràng đôi khi có thể là dấu hiệu của một tình trạng nghiêm trọng như ung thư đại trực tràng. Điều quan trọng là phải theo dõi bất kỳ hiện tượng chảy máu nào bạn đang gặp phải. Nếu nó nặng, thường xuyên hoặc khiến bạn lo lắng, hãy liên hệ bác sĩ để kiểm tra. Nguyên nhân gây xuất huyết đại tràng Nguyên nhân gây chảy máu đại tràng có thể từ nhẹ đến nghiêm trọng. Các điều kiện liên quan đến chảy máu trực tràng bao gồm Các vết nứt ở hậu môn Những vết rách nhỏ ở niêm mạc hậu môn có thể dẫn đến chảy máu và đau khi đi phân. Chảy nước mắt có thể do táo bón hoặc trong quá trình sinh loạn sản mạch Các mạch máu mở rộng phát triển trong ruột, chúng có thể trở nên dễ vỡ, vỡ và chảy trĩ Đây là những khối mô được tạo thành từ các mạch máu và sợi cơ. Trĩ nội ở bên trong cơ thể, chúng không đau nhưng có thể gây chảy máu. Trong một số trường hợp, chúng có thể đi qua hậu bón Phân cứng và rặn để giảm táo bón có thể dẫn đến nứt hậu môn và bệnh trĩ, cả hai đều có thể dẫn đến chảy hậu môn hoặc đại trực tràng Polyp là những khối u có thể xuất hiện ở nhiều vị trí trên khắp cơ thể. Nếu polyp phát triển trong ruột, chúng có thể bị chảy máu. Polyp không phải là ung thư, nhưng một số có thể trở thành ác tính trong thời loét Vết loét có thể hình thành khi tình trạng xói mòn trở nên trầm trọng hơn trong đường tiêu hóa. Phân có màu đen, hắc ín có thể xảy ra nếu vết loét chảy máu nhiều hơn trong ruột, nhưng vết loét sâu hơn có thể tạo ra máu đỏ tươi. Tuy nhiên, điều này không phải lúc nào cũng đúng và bác sĩ của bạn sẽ cần phải điều thư hậu môn hoặc ung thư ruột kết Khi các khối u hình thành, chúng cần các mạch máu để phát triển. Các mạch máu trong đại tràng rất dễ vỡ và có thể bị rách, gây chảy máu. Bệnh viêm ruột IBD Điều này bao gồm viêm loét đại tràng UC và bệnh Crohn. Chảy máu có thể xảy ra cùng với đau trực tràng và tiêu ruột thừa Diverticula là những túi nhỏ hoặc khối phồng trong ruột kết, theo thời gian, các mạch máu có thể bị xói mòn, vỡ và chảy máu. Khi không có triệu chứng, nó được gọi là bệnh túi thừa, nhưng nếu tình trạng viêm xảy ra, đây là bệnh viêm ruột thừaNhiễm trùng Nhiễm trùng đường ruột, hoặc nhiễm trùng do vi khuẩn, chẳng hạn như salmonella , có thể gây chảy trạng chảy máu Một số tình trạng có thể góp phần gây chảy máu vì chúng ảnh hưởng đến khả năng đông của máu. Chúng bao gồm thiếu hụt vitamin K , bệnh máu khó đông và số lượng tiểu cầu thấp, còn được gọi là giảm tiểu cầu .Tổn thương đường tiêu hóa trên GI Chảy nước mắt hoặc các vấn đề khác trong dạ dày hoặc thậm chí thực quản có thể gây chảy máu từ trực tràng. Chảy máu từ đường tiêu hóa trên có nhiều khả năng xuất hiện dưới dạng phân có màu đen, hắc ín. Nguyên nhân chảy máu trực tràng ít phổ biến hơn bao gồm phản ứng dị ứng với một số loại thực phẩm. Xuất huyết đại tràng được chẩn đoán như thế nào? Bác sĩ sẽ bắt đầu bằng cách hỏi bạn về các triệu chứng của bạn. Các câu hỏi có thể bao gồm thời điểm bạn nhận thấy máu đầu tiên, các triệu chứng liên quan mà bạn đang gặp phải và máu có màu gì. Khám sức khỏe Bác sĩ sẽ nhìn hoặc cảm nhận để kiểm tra khu vực bị ảnh hưởng. Điều này có thể bao gồm việc đưa ngón tay đeo găng tay, bôi trơn vào hậu môn để kiểm tra các bất thường, chẳng hạn như bệnh thủ tục nội soi Bác sĩ đưa một ống soi mỏng, linh hoạt có gắn camera vào hậu môn. Điều này cho phép bác sĩ xem khu vực. Ví dụ bao gồm nội soi đại tràng hoặc nội soi đại tràng .Xét nghiệm máu Công thức máu toàn bộ CBC có thể giúp đánh giá mức độ chảy máu và cho biết có bị thiếu máu hay nghiệm phân Chúng có thể cho thấy nếu có chảy máu mà không nhìn thấy dạ dày Nếu bác sĩ nghi ngờ vấn đề có thể nằm trong dạ dày, họ có thể đưa một ống thông qua mũi vào dạ dày để loại bỏ các chất bên trong và cố gắng xác định vị trí chảy xét nghiệm hình ảnh Chụp CT hoặc chụp X-quang Điều trị xuất huyết đại tràng Các phương pháp điều trị chảy máu đại tràng tùy thuộc vào nguyên nhân và mức độ nghiêm trọng. Các biện pháp khắc phục tại nhà Ở nhà, một cách để giảm đau và khó chịu do bệnh trĩ có thể là tắm nước ấm. Bôi kem không kê đơn hoặc theo toa cũng có thể làm giảm kích ứng. Nếu vết nứt hậu môn do táo bón, điều trị táo bón có thể giúp vết nứt lành lại. Các phương pháp điều trị tại nhà để ngăn ngừa táo bón có thể làm giảm nguy cơ xuất huyết đại tràng. Bao gồm Ăn thực phẩm giàu chất xơ trừ khi có chỉ định khác của bác sĩHỏi bác sĩ hoặc dược sĩ về thuốc làm giảm táo bónTập thể dục thường xuyên để ngăn ngừa táo bónGiữ cho vùng hậu môn trực tràng sạch sẽGiữ nước tốt Điều trị y tế Nếu các biện pháp điều trị táo bón tại nhà không hiệu quả, hãy hỏi bác sĩ về các lựa chọn y tế và đơn thuốc. Bệnh trĩ có thể cần điều trị xâm lấn hơn nếu cơn đau dữ dội hoặc búi trĩ lớn. Rò hậu môn có thể tự khỏi nhưng bác sĩ có thể kê đơn thuốc kháng sinh nếu nhiễm trùng. Ung thư đại tràng sẽ cần điều trị lâu dài, chẳng hạn như phẫu thuật, hóa trị và xạ trị để loại bỏ ung thư và giảm nguy cơ tái phát. Polyp có thể cần được điều trị nếu chúng lớn, nếu có nhiều hoặc nếu các thay đổi tế bào cho thấy chúng có thể trở thành ung thư. Bác sĩ có thể loại bỏ polyp trong quá trình nội soi. Xuất huyết đại tràng là một vấn đề phổ biến và thường là do một vấn đề nhỏ, chẳng hạn như bệnh trĩ. Tuy nhiên, nó cũng có thể là dấu hiệu của một căn bệnh nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như ung thư đại trực tràng. Hãy tìm kiếm lời khuyên y tế sớm đối với bất kỳ trường hợp chảy máu đại trực tràng nào sẽ giúp bác sĩ có cơ hội loại trừ tình trạng nghiêm trọng hơn hoặc đưa ra phương pháp điều trị, nếu thích hợp. Bài viết được tham khảo từ bác sĩ và các nguồn tư liệu đáng tin cậy trong và ngoài nước. Tuy nhiên, Docosan Team khuyến khích bệnh nhân hãy tìm và đặt lịch hẹn với bác sĩ có chuyên môn để điều trị. Để được tư vấn trực tiếp, bạn đọc vui lòng liên hệ hotline 1900 638 082 hoặc CHAT để được hướng dẫn đặt hẹn. Nguồn tham khảo
Viêm đại tràng thể loét là một bệnh viêm mạn tính và loét xuất hiện ở niêm mạc đại tràng, thường đặc trưng nhất bởi tiêu chảy phân máu. Có thể có các triệu chứng ngoài ruột, đặc biệt là viêm khớp. Nguy cơ dài hạn là ung thư đại tràng tăng lên so với những người không bị ảnh hưởng. Chẩn đoán bằng nội soi đại tràng. Điều trị bằng axit 5-aminosalicylic, corticosteroid, thuốc điều biến miễn dịch, thuốc sinh học, kháng sinh và đôi khi là phẫu thuật. Viêm đại tràng thể loét thường khởi đầu ở trực tràng. Bệnh có thể chỉ cục bộ ở trực tràng viêm trực tràng thể loét hoặc lan rộng đến đầu gần, đôi khi ảnh hưởng đến toàn bộ đại tràng. Hiếm khi tổn thương hầu hết đại tràng cùng một do viêm đại tràng thể loét ảnh hưởng đến lớp niêm mạc và dưới niêm mạc và có một ranh giới rõ ràng giữa mô bình thường và mô bị ảnh hưởng. Chỉ trong thể bệnh nặng lớp cơ mới bị ảnh hưởng. Trong giai đoạn sớm của bệnh, màng nhầy hồng đỏ, có dạng hạt nhỏ và dễ vỡ, mất dạng mạch bình thường và thường có các vùng xuất huyết rải rác. Loét niêm mạc rộng kèm theo xuất tiết mủ nhiều là đặc trưng của bệnh nặng. Các đảo niêm mạc viêm tương đối bình thường hoặc tăng sản giả polyp nằm phía trên các vùng niêm mạc bị loét. Rò và áp xe không xảy ra. Viêm đại tràng nhiễm độc hoặc viêm đại tràng tối cấp xảy ra khi loét lan rộng xuyên thành dẫn đến viêm phúc mạc và tắc ruột cơ năng cục bộ. Trong vài giờ đến vài ngày, đại tràng mất trương lực cơ và bắt đầu giãn thuật ngữ phình đại tràng nhiễm độc và giãn do nhiễm độc không khuyến khích dùng vì trạng thái viêm nhiễm độc và các biến chứng của nó có thể xảy ra mà không có phình đại tràng miễn cưỡng được định nghĩa là đường kính đại tràng ngang > 6 cm trong đợt cấp. Viêm đại tràng nhiễm độc là tình trạng cấp cứu nội khoa, thường xảy ra tự phát trong quá trình diễn biến của viêm đại tràng rất nặng, nhưng đôi khi bị xảy ra do thuốc cầm tiêu chảy opioid hoặc kháng cholinergic. Có thể thủng đại tràng, làm tăng đáng kể tỷ lệ tử vong. Các triệu chứng và dấu hiệu của viêm đại tràng thể loét Bệnh nhân thường có Các đợt tiêu chảy có máu với cường độ và thời gian khác nhau xen kẽ với các khoảng thời gian không có triệu chứngThông thường một đợt bệnh bắt đầu âm thầm, tăng dần cảm giác mót đại tiện, đau quặn bụng dưới mức độ nhẹ và có nhầy máu trong phân. Một số trường hợp xuất hiện sau khi nhiễm trùng ví dụ, lỵ amip, lỵ trực khuẩn.Khi vết loét khu trú ở trực tràng đại tràng sigma, phân có thể bình thường hoặc cứng và khô, nhưng trực tràng thải ra chất nhầy kèm theo hồng cầu và bạch cầu hoặc xảy ra giữa các lần đại tiện. Các triệu chứng toàn thân không có hoặc nhẹ. Nếu loét lan đến đầu gần, phân trở nên lỏng và bệnh nhân có thể đi ngoài > 10 lần/ngày, thường đau quặn bụng dữ dội và cảm giác buốt mót ở trực tràng, không giảm về đêm. Phân có thể toàn nước hoặc chứa chất nhầy và thường gồm gần như toàn bộ máu và mủ. Viêm đại tràng nhiễm độc hoặc tối cấp biểu hiện ban đầu với tiêu chảy đột ngột dữ dội, sốt đến 40° C 104° F, đau bụng, các dấu hiệu viêm phúc mạc ví dụ cảm ứng phúc mạc và nhiễm độc máu rõ. Triệu chứng và dấu hiệu toàn thân, phổ biến hơn ở viêm đại tràng thể loét lan tỏa, bao gồm mệt mỏi, sốt, thiếu máu, chán ăn và sút cân. Các biểu hiện ngoài đường tiêu hóa của bệnh viêm ruột Các biểu hiện ngoài ruột Bệnh viêm ruột IBD, bao gồm Bệnh Crohn và viêm đại tràng thể loét, là một tình trạng tái phát và thuyên giảm, đặc trưng bởi tình trạng viêm mạn tính tại các vị trí khác nhau trong đường tiêu... đọc thêm IBD, đặc biệt là các biến chứng ở khớp và ở da, thường gặp nhất khi có các triệu chứng toàn thân. Nuôi cấy và soi phân để loại trừ các nguyên nhân lây nhiễmNội soi đại tràng sigma có sinh thiết Ở tất cả các bệnh nhân, cấy phân tìm mầm bệnh đường ruột Căn nguyên Viêm dạ dày ruột là viêm lớp niêm mạc dạ dày, ruột non và đại tràng. Hầu hết các trường hợp đều do nhiễm trùng, mặc dù viêm dạ dày ruột có thể xảy ra sau uống thuốc và nuốt phải chất độc hoá... đọc thêm nên được thực hiện, và Entamoeba histolytica nên được loại trừ bằng cách xét nghiệm các mẫu bệnh phẩm phân tươi. Khi nghi ngờ nhiễm amip Nhiễm amip Nhiễm amip là bệnh nhiễm đơn bào Entamoeba histolytica. Bệnh lây truyền qua đường phân - miệng. Khi nhiễm amip thông thường không có triệu chứng, tuy nhiên các triệu chứng đi ngoài nhẹ... đọc thêm do tiền sử dịch tễ hoặc tiền sử du lịch nên làm chuẩn độ huyết thanh và sinh thiết. Tiền sử sử dụng kháng sinh trước đây hoặc nhập viện gần đây nên nhanh chóng xét nghiệm phân để tìm độc tố Clostridioides difficile trước kia Clostridium difficile. Bệnh nhân có nguy cơ nên được kiểm tra HIV, lậu, herpesvirus, chlamydia và nhiễm amip. Nhiễm trùng cơ hội ví dụ, cytomegalovirus, Mycobacterium avium-intracellulare hoặc ung thư Kaposi cũng phải được xem xét ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Ở phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai đường uống, có thể có viêm đại tràng do thuốc tránh thai; tình trạng này thường tự hết sau khi ngừng liệu pháp hormon. Xét nghiệm phân tìm lactoferrin và calprotectin trong phân có thể có lợi trong việc phân biệt IBD với tiêu chảy chức năng. Cần thực hiện nội soi đại tràng sigma; cho phép xác định trực quan viêm đại tràng và cho phép trực tiếp lấy mẫu phân hoặc chất nhầy để nuôi cấy và đánh giá vi thể, cũng như sinh thiết các vùng bị tổn thương. Mặc dù việc đánh giá bằng mắt thường và sinh thiết có thể không có ý nghĩa chẩn đoán, bởi vì có nhiều chồng chéo giữa các loại viêm đại tràng, viêm cấp đại cấp tính, tự khỏi, nhiễm trùng có thể được phân biệt về mô học với bệnh viêm đại tràng thể loét tự phát mạn tính hoặc viêm đại tràng Crohn. Bệnh quanh trực tràng nặng, không biểu hiện ở trực tràng, không có chảy máu và tổn thương bất đối xứng hoặc từng đoạn của đại tràng cho biết bệnh Crohn thay vì viêm đại tràng thể loét. Nội soi đại tràng thường không cần thiết lúc đầu nhưng nên được thực hiện chọn lọc nếu viêm đã lan gần tới tầm với của ống soi đại tràng nghiệm cần phải được thực hiện để sàng lọc thiếu máu, giảm albumin máu và các bất thường về điện giải. Các xét nghiệm gan nên được thực hiện; nồng độ phosphatase kiềm và gamma-glutamyl transpeptidase tăng cao cho thấy có thể có viêm đường mật xơ cứng nguyên phát. Các Kháng thể kháng bào tương của bạch cầu đa nhân trung tính quanh nhân tương đối đặc hiệu 60 đến 70% đối với viêm loét đại tràng. Kháng thể kháng Saccharomyces cerevisiae tương đối đặc hiệu đối với bệnh Crohn. Tuy nhiên, các xét nghiệm này không phân biệt được hai bệnh một cách đáng tin cậy và không được khuyến cáo để chẩn đoán thường quy. Các bất thường khác có thể xảy ra trong phòng thí nghiệm bao gồm tăng bạch cầu, tăng tiểu cầu và tăng chất phản ứng giai đoạn cấp tính ví dụ, tốc độ máu lắng, protein phản ứng C. X-quang không nhằm chẩn đoán nhưng đôi khi phát hiện thấy các bất thường. X-quang bụng không chuẩn bị có thể thấy phù nề niêm mạc, mất rãnh ngang ruột già và phân không hình thành trong ruột bị bệnh. Thụt barium cho thấy những biến đổi tương tự, mặc dù rõ ràng hơn, và cũng có thể cho thấy các chỗ loét, nhưng không nên thụt trong giai đoạn cấp. Đại tràng cứng và ngắn cùng với teo hoặc niêm mạc dạng giả polyp thường xuất hiện sau vài năm bị bệnh. X-quang thấy dấu hiệu dấu ấn ngón cái và phân bố theo đoạn gợi ý nhiều đến thiếu máu ruột cục bộ hoặc có thể là viêm đại tràng Crohn hơn là viêm đại tràng thể loét. Bệnh nhân đã bị bệnh và tái phát các triệu chứng điển hình cần được khám, nhưng không phải lúc nào cũng cần tiến hành tất cả các xét nghiệm. Tùy thuộc vào thời gian và mức độ nặng của các triệu chứng, có thể thực hiện nội soi đại tràng sigma hoặc nội soi đại tràng và làm công thức máu. Nuôi cấy, xét nghiệm trứng và ký sinh trùng và độc tố của C. difficile cần được thực hiện khi có các triệu chứng tái phát không điển hình hoặc khi có một đợt cấp sau thời gian hồi phục dài, trong một đợt bùng phát dịch lây nhiễm, sau khi dùng kháng sinh, hoặc bất cứ khi nào bác sĩ lâm sàng nghi ngờ. Bệnh nhân cần phải nhập viện nhanh chóng trong thời gian phát bệnh nặng. Chụp X-quang tư thế nằm và đứng thẳng có thể cho thấy phình đại tràng hoặc khí tích lũy trong ruột thời gian dài liên tục và liệt đoạn đại tràng do mất trương lực cơ. Cần tránh nội soi đại tràng và thụt barium vì có nguy cơ thủng, tuy nhiên nội soi đại tràng sigma cẩn thận thường được làm để đánh giá mức độ nặng và loại trừ nhiễm trùng. Cần có công thức máu, số lượng tiểu cầu, tốc độ máu lắngu, protein phản ứng C, chất điện giải và albumin; thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin riêng phần, và nhóm máu và phản ứng chéo cũng được chỉ định trong trường hợp chảy máu nhân phải được theo dõi sát để xem có viêm phúc mạc tiến triển hoặc thủng không. Gõ gan rất quan trọng bởi vì mất độ đục gan có thể là dấu hiệu lâm sàng đầu tiên của thủng tự do, đặc biệt là ở bệnh nhân mà dấu hiệu phúc mạc bị giảm bởi corticosteroid liều cao. X-quang bụng được thực hiện 1 hoặc 2 ngày một lần để theo dõi diễn biến của giãn đại tràng và để phát hiện khí tự do hoặc khí trong thành ruột; CT nhạy hơn trong việc phát hiện khí ngoài lòng ruột hoặc áp xe quanh đại tràng. Thông thường, viêm đại tràng thẻ là bệnh mạn tính với những đợt cấp và thuyên giảm lặp đi lặp lại. Ở khoảng 10% số bệnh nhân, đợt tấn công ban đầu rất dữ dội kèm theo xuất huyết dữ rội, thủng, nhiễm khuẩn huyết và nhiễm độc huyết. Hồi phục hoàn toàn sau một đợt cơn cấp chiếm 10%.Bệnh nhân viêm đại tràng thể loét cục bộ có tiên lượng tốt nhất. Các biểu hiện toàn thân nặng, các biến chứng nhiễm độc và thoái hoá ác tính không có khả năng xảy ra và sự lan rộng ở giai đoạn muộn của bệnh xảy ra chỉ khoảng 20 đến 30%. Phẫu thuật hiếm khi cần và tuổi thọ ở mức bình thường. Tuy nhiên, các triệu chứng có thể chứng tỏ sự dai dẳng và kháng trị của bệnh. Hơn nữa, vì viêm đại tràng thể loét lan rộng có thể bắt đầu ở trực tràng và lan đến đầu gần, viêm trực tràng không được coi là cục bộ cho đến khi được theo dõi ≥ 6 tháng. Bệnh cục bộ mà sau đó lan rộng thường nặng hơn và kháng trị hơn. Ung thư bắt đầu xuất hiện khoảng 7 năm sau khi khởi phát bệnh ở những bệnh nhân viêm đại tràng lan tỏa và sau đó phát triển ở khoảng 0,5 đến 1% số bệnh nhân mỗi năm. Do đó, sau 20 năm bị bệnh, khoảng 7% đến 10% số bệnh nhân sẽ phát triển thành ung thư và khoảng 30% sau 35 năm bị bệnh. Tuy nhiên, những bệnh nhân bị bệnh viêm ruột và viêm xơ ống mật nguyên phát có nguy cơ ung thư cao hơn kể từ thời điểm chẩn đoán viêm đại sát bằng nội soi thường xuyên, tốt nhất là trong thời gian thuyên giảm, được khuyên dùng cho những bệnh nhân có thời gian mắc bệnh > 8 đến 10 năm ngoại trừ những người bị viêm trực tràng đơn độc hoặc khi có đồng thời viêm đường mật xơ cứng nguyên phát, trong trường hợp đó, nội soi đại tràng giám sát nên bắt đầu tại thời điểm chẩn đoán. Các nguyên tắc đề xuất làm sinh thiết ngẫu nhiên lấy 10 cm ở mỗi chỗ, khắp đại tràng khi sử dụng phương pháp nội soi đại tràng ánh sáng trắng độ nét cao nhưng chỉ làm sinh thiết nhắm mục tiêu các tổn thương có thể nhìn thấy khi sử dụng phương pháp nội soi bơm chất màu để phát hiện loạn sản. Phát hiện loạn sản ở bất kỳ mức độ nào trong vùng bị ảnh hưởng bởi viêm đại tràng có khả năng tiến triển thành giai đoạn tạo u tiến triển và thậm chí là ung thư. Sau khi loại bỏ hoàn toàn các tổn thương loạn sản có polyp hoặc không polyp bằng nội soi, giám sát bằng nội soi đại tràng được đề xuất thay vì phẫu thuật cắt đại tràng. Bệnh nhân có loạn sản không thể nhìn thấy bằng nội soi có thể được giới thiệu đến một bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa có chuyên môn về giám sát IBD bằng phương pháp nội soi bơm chất màu và/hoặc phương pháp nội soi đại tràng có độ nét cao để quyết định nên cắt đại tràng hay tiếp tục giám sát bằng nội soi đại tràng. Tần suất tối ưu của giám sát bằng nội soi đại tràng chưa được xác định, nhưng một số tác giả khuyến cáo cứ 2 năm một lần trong thấp kỷ thứ 2 của bệnh và sau đó hàng gian sống thêm lâu dài sau khi chẩn đoán ung thư liên quan đến viêm đại tràng là khoảng 50%, một con số tương đương với tỷ lệ ung thư đại trực tràng trong quần thể chung. Quản lý chế độ ăn và loperamide ngoại trừ đợt nặng cấp tính để giảm triệu chứngAxit 5-aminosalicylic 5-ASACorticosteroid và các thuốc khác tùy thuộc vào triệu chứng và mức độ nặngThuốc chống chuyển hóa, thuốc sinh học, thuốc ức chế Janus kinase hoặc thuốc điều biến thụ thể sphingosine 1-phosphate S1PĐôi khi phẫu thuật Tránh trái cây và hoa quả tươi nhằm hạn chế chấn thương niêm mạc đại tràng bị viêm và từ đó có thể làm giảm các triệu chứng. Chế độ ăn uống không sữa có thể có tác dụng nhưng không cần phải tiếp tục nếu không có lợi ích nào được ghi nhận. Loperamide 2 mg đường uống từ 2 đến 4 lần/ngày được chỉ định cho tiêu chảy tương đối nhẹ; liều cao hơn 4 mg vào buổi sáng và 2 mg sau mỗi lần đại tiện có thể được dùng cho tiêu chảy nặng hơn. Các thuốc chống tiêu chảy phải được sử dụng hết sức thận trọng trong các trường hợp nặng vì thuốc có thể gây ra giãn đại tràng nhiễm độc. Tất cả bệnh nhân bị bệnh viêm ruột nên được khuyên dùng một lượng canxi và vitamin D thích hợp. Bệnh nhân bị viêm đầu gần đến đại tràng sigma hoặc bệnh đại tràng bên trái không đáp ứng với thuốc bôi tại chỗ nên dùng một dạng bào thế 5-ASA Axit 5-aminosalicylic 5-ASA, Mesalamine Một vài loại thuốc có hiệu quả cho bệnh viêm đại tràng IBD. Chi tiết về lựa chọn và sử dụng thuốc được thảo luận ở từng rối loạn xem Điều trị bệnh Crohn và điều trị viêm đại tràng thể loét... đọc thêm đường uống ngoài dạng thụt của 5-ASA. Liều cao corticosteroid Corticosteroid Một vài loại thuốc có hiệu quả cho bệnh viêm đại tràng IBD. Chi tiết về lựa chọn và sử dụng thuốc được thảo luận ở từng rối loạn xem Điều trị bệnh Crohn và điều trị viêm đại tràng thể loét... đọc thêm được sử dụng cho các triệu chứng nặng hơn; sau 1 đến 2 tuần, liều hàng ngày sẽ giảm khoảng 5 đến 10 mg mỗi tuần. Liệu pháp thuốc điều biến miễn dịch Thuốc điều hòa miễn dịch Một vài loại thuốc có hiệu quả cho bệnh viêm đại tràng IBD. Chi tiết về lựa chọn và sử dụng thuốc được thảo luận ở từng rối loạn xem Điều trị bệnh Crohn và điều trị viêm đại tràng thể loét... đọc thêm bằng azathioprine hoặc 6-mercaptopurine có thể được sử dụng ở những bệnh nhân kháng trị với liều 5-ASA tối đa hoặc những bệnh nhân điều trị bằng corticoid kéo dài. Ngoài ra, infliximab, adalimumab, golimumab, ustekinumab và vedolizumab có lợi ở một số bệnh nhân và có thể được xem xét cho những người kháng trị với thuốc điều biến miễn dịch thất bại với thiopurine hoặc liệu pháp corticosteroid cũng như những người phụ thuộc corticosteroid. Hơn nữa, phối hợp của thuốc điều biến miễn dịch và liệu pháp kháng TNF Thuốc kháng TNF Một vài loại thuốc có hiệu quả cho bệnh viêm đại tràng IBD. Chi tiết về lựa chọn và sử dụng thuốc được thảo luận ở từng rối loạn xem Điều trị bệnh Crohn và điều trị viêm đại tràng thể loét... đọc thêm đôi khi hữu ích. Cuối cùng, ở một số bệnh nhân không đáp ứng với corticosteroid, thuốc ức chế miễn dịch hoặc thuốc sinh học, có thể xem xét thử dụng thuốc ức chế Janus kinase tofacitinib, hoặc thử dùng thuốc điều biến thụ thể sphingosine 1-phosphate, ozanimod. Bệnh nhân có đi ngoài phân máu > 10 lần mỗi ngày, nhịp tim nhanh, sốt cao hoặc đau bụng dữ dội cần phải nằm viện để dùng corticosteroid liều cao đường tĩnh mạch. 5-ASA có thể được tiếp tục. Bù dịch đường tĩnh mạch và truyền máu cần cho mất nước và thiếu máu. Bệnh nhân phải được theo dõi sát để xem có tiến triển của viêm đại tràng nhiễm độc không. Bồi dưỡng ngoài ruột đôi khi được sử dụng để hỗ trợ dinh dưỡng nhưng không có giá trị như một liệu pháp chính; những bệnh nhân có thể dung nạp được thức ăn nên ăn. Nếu nghi ngờ có viêm đại tràng nhiễm độc hoặc tối cấp, bệnh nhân nên Ngừng tất cả các thuốc chống tiêu chảyKhông ăn uống gì và đặt một ống dài vào ruột để hút dịch ngắt quãngĐiều trị tích cực bằng truyền dịch và điện giải natri clorua 0,9%, kali clorua và máu để điều trị khi cần thiếtCho dùng corticosteroid hoặc cyclosporine liều cao đường tĩnh mạchCho dùng kháng sinh ví dụ, metronidazole 500 mg đường tĩnh mạch 8 giờ một lần và ciprofloxacin 500 mg đường tĩnh mạch 12 giờ một lầnCó thể dùng InfliximabLăn trở bệnh nhân từ sấp sang ngửa trên giường từ 2 đến 3 giờ một lần có thể giúp phân bố lại khí trong đại tràng và ngăn ngừa chướng bụng tiến triển. Đặt ống thông trực tràng mềm cũng có thể hữu ích nhưng phải được thực hiện cẩn thận để tránh thủng ruột. Ngay cả khi loại bỏ chèn ép ở đại tràng bị giãn, bệnh nhân cũng không thoát khỏi nguy hiểm trừ khi quá trình viêm được kiểm soát; nếu không thì sẽ cần phải phẫu thuật cắt đại các biện pháp điều trị tích cực bằng thuốc không đem lại cải thiện rõ rệt trong vòng 24 đến 48 giờ, cần phải phẫu thuật ngay lập tức hoặc bệnh nhân có thể chết vì nhiễm khuẩn huyết do chuyển vị vi khuẩn hoặc thậm chí là do thủng. Sau điều trị hiệu quả một cơn bùng phát, giảm dần liều corticosteroid dựa trên đáp ứng lâm sàng và sau đó dừng bởi vì thuốc này không có hiệu quả duy trì. Bệnh nhân nên duy trì các thuốc 5-ASA đường uống hoặc đường trực tràng, tùy thuộc vào vị trí của bệnh - không xác định vì ngừng điều trị duy trì thường có tái phát bệnh. Khoảng liều dùng cho các chế phẩm trực tràng có thể dãn dài dần đến 2 hoặc 3 ngày một lần. Có rất nhiều bằng chứng cho thấy kết hợp liệu pháp đường uống và đường trực tràng có hiệu quả đáng kể so với dùng đơn độc một trong hai liệu bệnh nhân không thể ngừng sử dụng corticosteroid nên được dùng thiopurines azathioprine hoặc 6-mercaptopurine, thuốc kháng TNF, thuốc ức chế Janus kinase tofacitinib, hoặc kết hợp thiopurines hoặc methotrexate và thuốc kháng TNF. Đối với các trường hợp khó chữa hơn, vedolizumab kháng integrin cũng như infliximab, adalimumab, golimumab hoặc ustekinumab có thể được sử dụng cho cả điều trị duy trì viêm đại tràng thể loét và bệnh Crohn. Cuối cùng, ở một số bệnh nhân không đáp ứng với corticosteroid, thuốc ức chế miễn dịch hoặc thuốc sinh học, có thể thử dùng tofacitinib hoặc ozanimod làm điều trị duy trì. Gần một phần ba số bệnh nhân có viêm đại tràng thể loét lan tỏa sau cùng cũng cần phải phẫu thuật. Phẫu thuật cắt đại trực tràng toàn bộ là biện pháp điều trị khỏi Tuổi thọ được phục hồi trở lại bình thường, và nguy cơ ung thư đại tràng giảm đáng kể. Tuy nhiên, một số nghiên cứu báo cáo có tới 25% số bệnh nhân sau đó bị viêm niêm mạc ruột non phù hợp với bệnh Crohn 1 Tài liệu tham khảo về điều trị Viêm đại tràng thể loét là một bệnh viêm mạn tính và loét xuất hiện ở niêm mạc đại tràng, thường đặc trưng nhất bởi tiêu chảy phân máu. Có thể có các triệu chứng ngoài ruột, đặc biệt là viêm... đọc thêm , 2 Tài liệu tham khảo về điều trị Viêm đại tràng thể loét là một bệnh viêm mạn tính và loét xuất hiện ở niêm mạc đại tràng, thường đặc trưng nhất bởi tiêu chảy phân máu. Có thể có các triệu chứng ngoài ruột, đặc biệt là viêm... đọc thêm ; điều này có thể xảy ra nhiều năm sau khi phẫu thuật. Sau khi cắt đại trực tràng toàn bộ kèm theo nối túi hậu môn giả hồi tràng-hậu môn IPAA, vẫn có một nguy cơ nhỏ về loạn sản hoặc ung thư trong vùng chuyển tiếp hậu môn vòng bít trực tràng và ngay cả trong túi hậu môn giả ở hồi tràng. Sau phẫu thuật cắt trực tràng- đại tràng kèm theo mở thông hồi tràng hoặc IPAA, chất lượng cuộc sống được cải thiện; tuy nhiên, những thách thức mới về chất lượng cuộc sống được tạo thuật cắt đại tràng cấp cứu được chỉ định trong xuất huyết dữ dội, viêm đại tràng nhiễm độc tối cấp, hoặc thủng. Phẫu thuật cắt bỏ một phần đại tràng kèm theo mở thông hồi tràng và đóng trực tràng-đại tràng sigma thủ thuật Hartmann hoặc lỗ rò niêm mạc thường là các thủ thuật được lựa chọn vì hầu hết các bệnh nhân bị bệnh nguy kịch không thể chịu đựng được phẫu thuật lớn hơn. Gốc trực tràng-đại tràng sigma có thể được cắt bỏ khi mổ phiên sau đó hoặc có thể được sử dụng để nối hồi tràng hậu môn bằng túi hậu môn giả. Không nên để lại phần gốc trực tràng còn nguyên vẹn vì nguy cơ kích hoạt bệnh và chuyển thành ác thuật chọn lọc được chỉ định cho bệnh ung thư, hẹp có triệu chứng, chậm phát triển ở trẻ em, hoặc, thường là bệnh mạn tính khó chữa đem lại kết quả không giá trị hoặc phụ thuộc vào corticosteroid. Các biểu hiện ngoài ruột liên quan đến viêm đại tràng ví dụ, bệnh mủ da hoại thư, bây giờ được điều trị tốt hơn bằng cách điều trị bằng thuốc tích cực và hiếm khi có các chỉ định phẫu thuật. Phẫu thuật chọn lọc ở những bệnh nhân có chức năng cơ vòng bình thường là cắt đại trực tràng phục hồi bằng nối hồi tràng hậu môn. Thủ thuật này tạo ra một hồ chứa ở vùng chậu hoặc túi hậu môn giả từ đầu xa của hồi tràng, đoạn này được nối với hậu môn. Cơ thắt còn nguyên vẹn cho phép đại tiện tự chủ, thường từ 4-9 lần/ngày bao gồm 1 hoặc 2 lần vào ban đêm. Viêm túi hậu môn giả là một phản ứng viêm xảy ra sau khi cắt bỏ đại trực tràng phục hồi kèm theo IPAA ở khoảng 50% số bệnh nhân. Nguy cơ viêm túi hậu môn giả có vẻ cao hơn ở những bệnh nhân mắc viêm xơ ống mật nguyên phát, những bệnh nhân có biểu hiện ngoài ruột trước mổ và có thể ở những bệnh nhân có hiệu giá huyết thanh của kháng thể kháng bạch cầu đa nhân trung tính quanh nhân trước mổ cao và các chất chỉ điểm sinh học khác về viêm đại tràng cũng cao. Viêm túi hậu môn giả được cho là liên quan đến sự phát triển quá mức của vi khuẩn và được điều trị bằng kháng sinh ví dụ, quinolones. Lợi khuẩnc có thể có tác dụng bảo vệ. Hầu hết các trường hợp viêm túi hậu môn giả được kiểm soát dễ dàng, nhưng 5 đến 10% chứng tỏ không thể chịu đựng được tất cả các biện pháp điều trị bằng thuốc và cần phải chuyển sang mở thông hồi tràng thông thường Brooke. Đối với một số bệnh nhân cao tuổi, những người có gia đình và lối sống tốt, những người trương lực cơ thắt kém và không chịu được việc đi ngoài thường xuyên hoặc những người đơn giản là không thể hoặc không muốn đối mặt với hậu quả của viêm túi hậu môn giả thường xuyên hoặc mạn tính, mở thông hồi tràng Brooke vẫn là thủ thuật được lựa mọi trường hợp, gánh nặng về thể chất và tinh thần do bất kỳ hình thức cắt bỏ đại tràng nào đều phải được ghi nhận, và cần chú ý đến việc bệnh nhân có tất cả các hướng dẫn và tất cả các hỗ trợ y tế và tâm lý cần thiết trước và sau khi phẫu thuật. 1. Hercun J, Côté-Daigneault J, Lahaie RG, et al Crohn's disease after proctocolectomy and IPAA for ulcerative colitis. Dis Colon Rectum 642217–224, 2021. doi Shamah S, Schneider J, Korelitz BI High incidence of recurrent Crohn's disease following colectomy for ulcerative colitis revealed with long follow-up. Dig Dis Sci 632446–451, 2018. doi Viêm đại tràng thể loét khởi đầu trong trực tràng và có thể lan đến đầu gần theo kiểu lây nhiễm mà không ảnh hưởng các mảng ruột bình chứng là những cơn đau quặn bụng ngắt quãng và tiêu chảy phân có biến chứng bao gồm viêm đại tràng tối cấp, có thể dẫn đến thủng; lâu dài, nguy cơ ung thư đại tràng sẽ tăng trị bệnh mức độ nhẹ đến trung bình bằng 5-ASA đường trực tràng và đối với bệnh ở đoạn gần, qua đường trị bệnh trên diện rộng bằng corticosteroid liều cao, liệu pháp thuốc điều biến miễn dịch ví dụ, azathioprine, 6-mercaptopurine, thuốc sinh học ví dụ, infliximab, vedolizumab, tofacitinib, hoặc trị bệnh tối cấp bằng corticosteroid hoặc cyclosporine và kháng sinh ví dụ, metronidazole, ciprofloxacin hoặc infliximab liều cao đường tĩnh mạch; cắt đại tràng có thể cần một phần ba số bệnh nhân bị viêm đại tràng thể loét lan rộng cuối cùng cũng cần phẫu thuật. Sau đây là một nguồn thông tin bằng tiếng Anh có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này.
xuất huyết đại tràng