Phân tích truyện ngắn Tướng về hưu để làm rõ những đổi mới của truyện ngắn Việt Nam sau 1975.docx. 19.2 KB · Lượt xem: 49 Trả lời. Tên. Gửi trả lời Chia sẻ: Facebook Twitter Reddit Pinterest Tumblr WhatsApp Email Chia s
Tóm lại, xin giới thiệu tới bạn đọc những trang mạng lưu trữ sách điện tử xuất bản tại Miền Nam trước 1975. Xin nhắc lại, đấy là những nỗ lực của cá nhân hoặc nhóm, hội, âm thầm, tự túc, vô vị lợi, vì yêu văn chương, chữ nghĩa, và muốn vun sới trồng lại vườn hoa văn học muôn hồng nghìn tiá của một Việt Nam tự do, khai phóng dạo nào.
Kỷ niệm Tháng Tư Đen (Black April), mời quý độc giả đọc lại một truyện ngắn nữa của nhà văn Tiểu Tử kể lại một phần những cảnh khổ của người dân miền Nam sau tháng Tư năm 1975.
Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Lý Luận Văn Học: Công Chúng Tiếp Nhận Truyện Ngắn Việt Nam Thời Kỳ Đổi Mới; Nhân Vật Người Trí Thức Trong Tiểu Thuyết Việt Nam Sau Năm 1975; Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Lý Luận Văn Học: Người Đọc - Nhìn Từ Thực Tiễn Tiếp Nhận Văn Học
5L9qV9. ... BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN NGUYỄN THỊ BÍCH NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN NGUYỄN THỊ BÍCH NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG Chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số 62. 22. 01. 21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC 1. PGS. TS. Nguyễn Thị Bích Thu 2. PGS. TS. Đào Thủy Nguyên THÁI NGUYÊN - 2014 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực và nội dung này chưa từng được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào trước đó. Thái Nguyên, tháng 06 năm 2014 Tác giả luận án Nguyễn Thị Bích ii MỤC LỤC Lời cam đoan ................................................................................................................ i Mục lục ........................................................................................................................ii Danh mục chữ viết tắt ................................................................................................ iv MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................... 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 4 4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 5 5. Đóng góp mới của luận án ...................................................................................... 6 6. Cấu trúc của luận án ................................................................................................ 6 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................................... 7 Khái lược tình hình nghiên cứu lí thuyết tự sự .................................................... 7 Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ............................................................................................................ 10 Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng .......................................... 18 Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu ............................................................................................ 18 Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Khải .............................................................................................. 21 Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975 của Ma Văn Kháng.................................................................................................... 24 CHƢƠNG 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TỰ SỰ HỌC. KHÁI LƢỢC VỀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 ....................... 28 Một số vấn đề cơ bản của tự sự học ................................................................... 28 Người kể chuyện ............................................................................................. 28 Điểm nhìn nghệ thuật ...................................................................................... 32 Giọng điệu trần thuật ....................................................................................... 36 Khái lược về truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ................................................... 40 Quá trình vận động của truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975 đến nay ............. 40 iii Đổi mới tư duy nghệ thuật .............................................................................. 43 Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng trong dòng chảy của truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ................................................................................ 48 CHƢƠNG 3 NGÔI KỂ VÀ ĐIỂM NHÌN TRONG TRUYỆN NGẮN SAU 1975 CỦA NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG .... 56 Truyện ngắn kể theo ngôi thứ ba của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng .......................................................................................................... 56 Người kể chuyện ẩn mình kể theo điểm nhìn bên ngoài................................. 56 Người kể chuyện ẩn mình kể theo điểm nhìn bên trong ................................. 63 Người kể chuyện ẩn mình dịch chuyển điểm nhìn ......................................... 69 Truyện ngắn kể theo ngôi thứ nhất của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng .......................................................................................................... 80 Người kể chuyện xưng “tôi” duy nhất kể theo điểm nhìn đơn tuyến ............. 80 Nhiều người kể chuyện xưng “tôi” kể theo điểm nhìn đa tuyến ..................... 89 CHƢƠNG 4 GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN SAU 1975 CỦA NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG........ 101 Giọng điệu khẳng định, ngợi ca ....................................................................... 101 Giọng điệu trào lộng, châm biếm ..................................................................... 113 Giọng điệu xót xa, thương cảm ........................................................................ 120 Giọng điệu trầm tư, triết lí................................................................................ 130 Sự kết hợp, đan xen nhiều giọng điệu .............................................................. 139 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ..................................................................................................... 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152 Phụ lục .................................................................................................................... 167 iv DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CTNT Cốt truyện nghệ thuật ĐNBN Điểm nhìn bên ngoài ĐNBT Điểm nhìn bên trong ĐNĐaT Điểm nhìn đa tuyến ĐNĐT Điểm nhìn đơn tuyến ĐNPH Điểm nhìn phức hợp ĐNNT Điểm nhìn nghệ thuật NKC Người kể chuyện NT1 Ngôi thứ nhất NT2 Ngôi thứ hai NT3 Ngôi thứ ba 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Roland Barthes từng nói “Đã có bản thân lịch sử loài người, thì đã có tự sự” câu nói quen thuộc ở phương Tây “History is astory / L’Hi storie est unrécit” [165, tr. 12]. Tự sự gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của lịch sử loài người nhưng tự sự học Narratology - một bộ môn nghiên cứu đặc thù của lí luận văn học, lấy nghệ thuật tự sự làm đối tượng nghiên cứu thì phải đến thế kỉ XX mới được các nhà nghiên cứu tìm hiểu và trở thành một lĩnh vực học thuật được quan tâm. Những năm 60 của thế kỉ XX, các nhà lí luận Pháp đã đề cập về tự sự học và giải quyết các vấn đề liên quan đến chúng. Sau đó là các nhà nghiên cứu của Mĩ, Anh, Trung Quốc... Ở Việt Nam, tự sự học nhanh chóng trở thành lĩnh vực thu hút các nhà nghiên cứu. Nhiều công trình đã lấy lí thuyết tự sự làm cơ sở để khám phá cấu trúc văn bản truyện kể. Như vậy, tự sự học là “bộ phận không thể thiếu của hành trang nghiên cứu văn học hôm nay, và nói theo ngôn ngữ của Thomas Kuhn, thì đó là một bộ phận cấu thành của hệ hình paradigme lí luận hiện đại” [165, tr. 11]. Hơn nữa, tự sự học có thể mở rộng phạm vi nghiên cứu. Nó không đơn thuần là nghiên cứu các thể loại tự sự văn học mà còn nghiên cứu những lĩnh vực phi văn học như điện ảnh, nghệ thuật thị giác… Mieke Bal cho rằng, tất cả các khách thể văn hoá bộ luật, tranh ảnh, tư liệu lịch sử… đều ít nhiều có liên quan đến tự sự. Trần Đình Sử đã khẳng định tự sự học là “một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng” [165, tr. 10]. Vì vậy, tự sự là một thái độ văn hoá và nghiên cứu tự sự cũng là nghiên cứu văn hoá. Lí thuyết tự sự nghiên cứu nhiều phương diện phong phú và đa dạng liên quan đến nghệ thuật trần thuật loại hình trần thuật, cốt truyện, nhân vật, người kể chuyện, ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu... với nhiều quan điểm khác nhau. Vận dụng lí thuyết tự sự để nghiên cứu văn học đòi hỏi người nghiên cứu phải “nhìn” từ góc độ thi pháp. Luận án của chúng tôi vận dụng lí thuyết về ngôi kể, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật trong cấu trúc văn bản truyện kể để nghiên cứu nghệ thuật tự 2 sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng. Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Đất nước trở lại quỹ đạo thời bình, xã hội trong cơn chuyển mình lớn và đối mặt với biết bao những vấn đề riêng - chung cần giải quyết. Các nhà văn Việt Nam thoát ra khỏi ánh hào quang của những hình mẫu kì diệu và lí tưởng để trở về nhịp điệu cuộc sống đời thường với tất cả những biểu hiện đa dạng, phức tạp của nó. Sự đổi mới trong quan niệm về hiện thực và con người đã “mở rộng biên độ” của văn học. Văn học tiếp cận đời sống một cách biện chứng. Người viết cũng có thể đưa ra nhiều quan điểm khác nhau, tính dân chủ được thể hiện rất rõ. Nhà văn không có quyền áp đặt người đọc theo một tư tưởng có sẵn. Độc giả cũng có quyền lựa chọn tác giả phù hợp với thị hiếu của riêng mình. Tác giả - nhân vật và người đọc được đặt trong mối quan hệ đa chiều để tranh biện và đi tìm chân lí. Người viết thường không ngại “xé rào” bước ra trò chuyện trực tiếp với bạn đọc. Các điểm nhìn trần thuật được gia tăng và gắn với nó là sự phong phú về giọng điệu trần thuật. Điều này thể hiện khá rõ trong truyện ngắn. Truyện ngắn đã chứng tỏ là thể loại năng động, có khả năng nắm bắt vấn đề một cách nhanh nhạy, kịp thời mà vẫn chuyển tải được những vấn đề quan trọng của đời sống đương thời. Thể loại này mang trong nó những dấu hiệu của sự vận động và biến đổi với nhiều khuynh hướng khác nhau truyện ngắn viết theo lối truyền thống và tuân thủ những đặc trưng vốn có của thể loại; truyện ngắn cách tân trên nền truyền thống; truyện ngắn cách tân theo hướng hiện đại. Chúng tôi đi sâu nghiên cứu truyện ngắn của ba tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng những nhà văn sáng tác theo khuynh hướng cách tân trên nền truyền thống từ góc nhìn tự sự để thấy được sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật và sự vận động của cấu trúc thể loại trong bối cảnh mới. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải và Ma Văn Kháng là những cây bút có “thương hiệu”. Họ đã góp phần làm nên diện mạo của văn học Việt Nam trong thời kì mới. Nguyễn Minh Châu được coi là một 3 hiện tượng của văn học Việt Nam ở nửa sau thế kỉ XX. Với quan niệm “nhà văn phải đứng hai chân giữa mặt đất đầy hiểm họa, giữa thập loại chúng sinh”, Nguyễn Minh Châu đã khắc khoải về nhân sinh để đi tìm những “hạt ngọc” cho đời. Là một nhà văn suốt đời khao khát đi tìm cái đẹp và sự chân thật của cuộc sống, Nguyễn Minh Châu đã cống hiến hết mình cho nghệ thuật. Ông có một vị trí đặc biệt quan trọng - người “tiền trạm đổi mới” Phong Lê, “người mở đường đầy tài hoa và tinh anh” Nguyên Ngọc trong nền văn học đương đại Việt Nam. Còn Nguyễn Khải lại được đánh giá là một trong số ít người viết mà đời người, đời văn có mối liên quan chặt chẽ. Suốt nửa thế kỉ lao động sáng tạo, ngòi bút của ông đã gắn bó với lịch sử dân tộc. Bằng cái nhìn đa chiều, đa diện, Nguyễn Khải thể hiện trong sáng tác của mình nhãn quan tỉnh táo trước hiện thực đời sống. “Muốn hiểu con người thời đại với cái hay, cái dở của họ, nhất là muốn hiểu cách nghĩ của họ, phải đọc Nguyễn Khải” [20, tr. 61]. Bên cạnh Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng là cây bút chuyên nghiệp đầy bản lĩnh và tài năng. Con người trước lăng kính tâm hồn nhà văn không chỉ là đối tượng ngợi ca mà còn là tiêu điểm để “đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn” Lã Nguyên. Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng là những đại biểu tinh anh của phong trào đổi mới văn học sau 1975. Họ là những cây bút trưởng thành trong chiến tranh và trở về từ chiến tranh nhưng trong bối cảnh đổi mới, họ vẫn là những tác giả có nhiều bạn đọc. Cả ba nhà văn đều là những tấm gương lao động sáng tạo và được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh - giải thưởng cao quý về văn học nghệ thuật. Với những lí do như vậy, chúng tôi đi sâu nghiên cứu đề tài “Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng”. Ở luận án này, chúng tôi tiếp cận truyện ngắn của ba tác giả tiêu biểu thuộc thế hệ “3X” Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, Nguyễn Khải sinh năm 1930 và Ma Văn Kháng sinh năm 1936 có cùng một hành trình, cùng một khởi điểm, cùng chung một mô hình sáng tác của cùng một thế hệ nhà văn mở đầu cho văn học đổi mới và đều viết theo lối cách tân trên nền truyền thống từ góc nhìn thi pháp để thấy được sự chuyển động của thể loại truyện ngắn trong bối cảnh mới của đời sống văn học. 4 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu - Làm rõ nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng ở phương diện ngôi kể, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật. - Tìm ra những điểm chung của thế hệ, điểm riêng trong phong cách của từng tác giả và khẳng định đóng góp của ba nhà văn trong sự vận động, đổi mới thể loại truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Nhiệm vụ nghiên cứu - Vận dụng lí thuyết tự sự học hiện đại để tìm hiểu và phân tích truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhằm làm nổi bật giá trị nghệ thuật và nội dung tư tưởng của các tác phẩm, thấy được điểm chung, điểm riêng của ba nhà văn trong dòng chảy của truyện ngắn Việt Nam sau 1975. - Tìm hiểu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng trong thế đối sánh với truyện ngắn Việt Nam sau 1975 để chỉ ra những nét riêng biệt, những thành công và giới hạn của thế hệ nhà văn trưởng thành trong chiến tranh, thấy được đặc điểm truyện ngắn Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn tự sự. - Thông qua việc tìm hiểu sự đổi mới mô hình tự sự của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, chúng tôi thêm một lần nữa khẳng định diện mạo tinh thần, vai trò, vị trí của họ trong sự vận động của thể loại truyện ngắn Việt Nam sau 1975 nói riêng và trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là nghệ thuật tự sự trên các bình diện cơ bản như ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi vấn đề nghiên cứu Nghệ thuật tự sự bao gồm nhiều phương diện. Ở luận án này, chúng tôi tập trung nghiên cứu vấn đề ngôi kể, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật. Đó là những yếu tố nổi bật tạo nên phong cách nghệ thuật của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng. 5 - Phạm vi tư liệu + Đề tài chủ yếu khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhưng tập trung vào những sáng tác sau 1975. Đặc biệt, chúng tôi chú ý những tác phẩm trong tuyển tập truyện ngắn của ba nhà văn Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu 2006 của Nhà xuất bản Văn học; Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải 2007 của Nhà xuất bản Hội Nhà văn; Truyện ngắn chọn lọc Ma Văn Kháng 2002 của Nhà xuất bản Hội Nhà văn. + Một số truyện ngắn tiêu biểu của các nhà văn cùng thế hệ và khác thế hệ các nhà văn “6X”, “7X”, “8X”, “9X” để so sánh. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong luận án này, người viết chủ yếu sử dụng các phương pháp sau Phương pháp tiếp cận tự sự học Vận dụng lí thuyết tự sự để phân tích, lí giải những cách tân trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng. Phương pháp thống kê Phương pháp này được áp dụng trong quá trình khảo sát văn liệu để từ đó có thể đưa ra những kết luận khoa học về các phương diện của nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của ba nhà văn mà luận án quan tâm. Phương pháp hệ thống Phương pháp này giúp chúng tôi nhìn truyện ngắn của ba nhà văn như một hệ thống và đặt nó trong hệ thống lớn hơn là tiến trình văn học Việt Nam hiện đại. Đồng thời có thể đưa ra đánh giá về những đóng góp và giới hạn trong nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng một cách khách quan và toàn diện. Phương pháp loại hình, phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại Nhằm tìm ra những đặc điểm tương đồng loại hình về phương diện nghệ thuật trần thuật, chỉ ra các kiểu, dạng NKC, phương thức trần thuật và giọng điệu trần thuật… từ góc nhìn thể loại. Phương pháp so sánh Để có cái nhìn sâu hơn về đối tượng nghiên cứu, chúng tôi so sánh truyện ngắn của ba nhà văn với nhau và với truyện ngắn của các nhà văn khác, đồng thời đối 6 chiếu truyện ngắn của ba nhà văn ở hai giai đoạn sáng tác trước và sau 1975. Từ đó, chỉ ra những vận động về nghệ thuật trần thuật. Phương pháp tổng hợp Phương pháp này giúp chúng tôi đưa ra những khái quát trên cơ sở phân tích ngữ liệu cụ thể. 5. Đóng góp mới của luận án - Luận án vận dụng những thành tựu nghiên cứu tự sự học trên thế giới và ở Việt Nam để mô tả, phân tích sâu một số phương diện cơ bản của nghệ thuật tự sự như ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhằm làm nổi bật giá trị nội dung, nghệ thuật của các tác phẩm. Từ đó, người viết xác định điểm tương đồng và khác biệt trong nghệ thuật tự sự và trong phong cách nghệ thuật của ba tác giả. - Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 của nhóm tác giả đã có vị trí và đóng góp to lớn trong nền văn học Việt Nam hiện - đương đại. Trên cơ sở nghiên cứu đó, người viết khẳng định sự đổi mới và những thành công về tổ chức tự sự trong truyện ngắn sau 1975 của ba nhà văn “gạo cội” - tiêu biểu cho thế hệ những nhà văn mở đường của nền văn học Việt Nam từ sau 1975. - Từ thực tiễn sáng tác của ba nhà văn, từ sự đối chiếu, so sánh truyện ngắn của họ ở hai giai đoạn trước - sau 1975 và so sánh với truyện ngắn của các nhà văn khác, luận án chỉ ra sự vận động và đổi mới của truyện ngắn Việt Nam sau 1975. - Luận án góp một tài liệu phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, học tập về truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở các trường đại học, cao đẳng, trung học. 6. Cấu trúc của luận án Chương 1 Tổng quan về vấn đề nghiên cứu Chương 2 Một số vấn đề cơ bản của tự sự học. Khái lược về truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Chương 3 Ngôi kể và điểm nhìn trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng Chương 4 Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng 7 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Khái lƣợc tình hình nghiên cứu lí thuyết tự sự Tự sự học là “một nhánh của thi pháp học hiện đại” [165, tr. 11]. Chủ nghĩa hình thức Nga với những tên tuổi V. Shklovski 1893 - 1984, B. Eikhenbaum 1886 - 1959, B. Tomachevski 1890 - 1957… đã đặt nền móng cho những cơ sở ban đầu của lí thuyết tự sự. Họ đề cập đến nhiều phương diện cơ bản của cấu trúc tự sự ở phương diện lí thuyết như kết cấu tác phẩm, cốt truyện, nhân vật hay nghệ thuật tổ chức thời gian… B. Tomachevski vốn là một nhà phê bình thơ nhưng với tiểu luận Hệ chủ đề, ông đã trở thành người đầu tiên nghiên cứu thủ pháp của cốt truyện. Ông phân biệt khái niệm chuyện kể fabula, fable và cốt truyện sujet “tuyến hành động liên quan đến chuyện kể, còn tuyến trần thuật thì liên quan đến cốt truyện ” dẫn theo [165, tr. 30]. Ông phân biệt “thời gian của chuyện kể” và “thời gian trần thuật”, đồng thời trình bày nhiều thủ pháp như trì hoãn, bình luận ngoại đề, che giấu bí mật, đảo lộn thời gian… V. Shklovski qua các tiểu luận Nghệ thuật nhƣ là thủ pháp, Cấu trúc của truyện ngắn và tiểu thuyết… cho rằng “Nhiều tác phẩm tự sự là một tổ hợp các kết cấu vòng tròn và kết cấu bậc thang, trong đó các tình tiết được sắp xếp thành những tầng nấc kế tiếp nhau” dẫn theo [165, tr. 31]. Ông còn nói đến “thủ pháp đóng khung” và “thủ pháp xâu chuỗi” dẫn theo [165, tr. 32] trong văn tự sự. B. Eikhenbaum trong tiểu luận Về lí thuyết văn xuôi đã cho rằng “Truyện ngắn là hình thức sơ yếu của văn xuôi”, “nhà văn thường xây dựng truyện ngắn trên cơ sở một mâu thuẫn, một tan vỡ, một sai lầm hay một tương phản” dẫn theo [165, tr. 34]. Chủ nghĩa hình thức Nga đặt viên gạch đầu tiên cho lí thuyết tự sự học nhưng góp phần hình thành bộ môn tự sự học thì phải kể đến Chủ nghĩa cấu trúc với những tên tuổi như R. Barthes, Tz. Todorov, A. J. Greimas, G. Genette… Chủ nghĩa cấu trúc đi tìm mô hình cho hình thức tự sự. mở đầu với công trình Dẫn luận 8 phân tích tác phẩm tự sự 1968 và S/Z 1970 tác phẩm này đã bắt đầu chuyển sang hậu cấu trúc chủ nghĩa. Todorov là một trong những người đầu tiên đề xuất thuật ngữ tự sự học với chuyên luận Thi pháp văn xuôi. Todorov còn có công trình Ngữ pháp “Câu chuyện mười ngày”… Từ góc độ ngữ pháp, Todorov coi “nhân vật như danh từ, tình tiết là động từ” dẫn theo [165, tr. 14], G. Genette thì tuyên bố “mỗi câu chuyện là sự mở rộng của một câu” dẫn theo [165, tr. 14], R. Barthes cũng tán thành quan điểm đó… Như vậy, mục đích của chủ nghĩa cấu trúc là “nghiên cứu bản chất ngôn ngữ, bản chất ngữ pháp của tự sự” dẫn theo [165, tr. 14]. Tiếp theo phải kể đến các nhà tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa như M. Bakhtin, Iu. M. Lotman, B. Uspenski… Các tác giả này quan tâm đến các phương thức biểu đạt ý nghĩa khác nhau, lấy văn bản làm cơ sở Jean - Claude Coquet. Hình thức tự sự chính là phương tiện biểu đạt ý nghĩa của tác phẩm. Tổng quan quá trình nghiên cứu của lí thuyết tự sự, nhà lí luận Mĩ Gerald Prince đã chia làm ba nhóm theo ba loại hình như sau Nhóm thứ nhất gồm những nhà tự sự học chịu ảnh hưởng của các nhà hình thức chủ nghĩa Nga như V. Propp, Todorov, Barthes, Remak, Norman Friedman, Northrop Frye, Etienne Souriau… chú ý tới cấu trúc của câu chuyện được kể, bỏ qua hoặc không đi sâu vào đặc trưng biểu đạt của chất liệu; nhóm thứ hai gồm G. Genette, Dolezel, Micke Bal… xem nguồn gốc của tự sự là dùng ngôn ngữ biểu đạt và vai trò của người trần thuật là quan trọng nhất; nhóm thứ ba đại diện là Gerald Prince và Seymour Chatman lại coi trọng phương pháp nghiên cứu tổng thể. Lí thuyết tự sự học hiện đại lần đầu tiên cho người ta thấy sự phức tạp của cấu trúc tự sự với các vấn đề cần phải tìm tòi, suy ngẫm như vấn đề NKC, điểm nhìn, dòng ý thức, không gian, thời gian, giọng điệu nghệ thuật… Lí thuyết tự sự sẽ giúp cho ta nghiên cứu nghệ thuật tự sự của các thể loại nói chung và của từng tác phẩm văn học cụ thể nói riêng, qua đó cho thấy cả truyền thống văn học, văn hoá của mỗi dân tộc. Ở Việt Nam, năm 2001, hội thảo quy mô toàn quốc về tự sự học đã được tổ chức tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trong bài viết Tự sự học - một bộ môn 9 nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng, Trần Đình Sử đã hệ thống, khái lược những vấn đề tự sự từ chủ nghĩa hình thức Nga, ngôn ngữ học Saussure, Platon, Aritoste, Tz. Tododov, Genette… Qua đó, ông khẳng định vai trò quan trọng của tự sự học. Trong công trình Dẫn luận thi pháp học [167], Trần Đình Sử đã xác định vị trí của thi pháp học trong khoa nghiên cứu văn học, đối tượng phạm trù và phương pháp nghiên cứu thi pháp, ông tập trung đi sâu hệ thống, cắt nghĩa những khái niệm thuộc về trần thuật học như quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian - không gian nghệ thuật, tác giả và kiểu tác giả, tính quan niệm và cấu trúc thể loại, cấu trúc của văn bản trần thuật, ngôn từ nghệ thuật… Trần thuật học - Nhập môn lí thuyết trần thuật học của tác giả Manfred Jahn công bố vào ngày 28 - 07 - 2003 [131], đăng tải trên trang web đã xây dựng một hệ thống những khái niệm nền tảng về truyện kể và chỉ ra cách sử dụng chúng khi phân tích tác phẩm. Những định nghĩa này được dựa trên một loạt bài nhập môn cổ điển như cấu trúc của trần thuật, kể chuyện tiêu điểm và tình huống trần thuật, thì, thời và thức trần thuật, nhân vật và diễn ngôn… Cao Kim Lan trong bài viết Lí thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes và R. Kellogg [113] đã dựa vào cuốn Bản chất của tự sự The nature of Narrative, Oxford University, tái bản 1968 để giới thiệu về điểm nhìn nghệ thuật và sự chi phối của điểm nhìn trong truyện kể, vấn đề quyền năng của NKC với điểm nhìn của nhân vật, điểm nhìn của NKC và điểm nhìn của người đọc… Lê Phong Tuyết trong bài Tiếp cận Genette qua một vài khái niệm trần thuật [201] đã giới thiệu về Genette và lí thuyết của ông một cách hệ thống với những khái niệm liên quan đến trần thuật. Trong đó, tác giả tập trung làm rõ hai vấn đề mới mẻ với giới nghiên cứu và bạn đọc Việt Nam là tình huống trần thuật và người nghe chuyện. Một trong những công trình có ý nghĩa lớn với việc giới thiệu lí thuyết tự sự vào Việt Nam đó là cuốn Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử [165] do Trần Đình Sử chủ biên. Trong đó, Phan Thu Hiền có bài viết Về lí thuyết tự sự của Northrop Frye [165, tr. 56 - 70]. Tác giả giới thiệu Northrop Frye là đại biểu quan 10 trọng có ảnh hưởng sâu sắc nhất của lí thuyết Phê bình huyền thoại Mythcritic còn gọi là lí thuyết Phê bình nguyên mẫu archetypal critism với quan niệm cho rằng mục tiêu của văn chương là đạt đến sự giới thiệu, sự trình bày cuộc sống. Nguyễn Đức Dân giới thiệu về Greimas trong bài Greimas - Ngƣời xây nền cho trƣờng phái kí hiệu học Pháp [165, tr. 39 - 55] với mô hình vai hành động, cấu trúc cơ sở của nghĩa, mô hình cấu tạo. Tiếp theo, đó là cuốn Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử Tập 1 và tập 2 [166] cũng do Trần Đình Sử chủ biên. Ở đây, chúng tôi quan tâm đến bài viết Vấn đề phân loại góc nhìn trần thuật của Phương Lựu, Ngƣời kể chuyện - nhân vật mang tính chức năng trong tác phẩm tự sự [165, tr. 196 - 208] của Nguyễn Thị Hải Phương, Bàn về một vài thuật ngữ thông dụng trong truyện kể của Đặng Anh Đào [165, tr. 169 - 178]. Qua những bài viết này, các tác giả đã góp phần làm rõ các khái niệm tự sự học như NKC, điểm nhìn, giọng điệu, ngôi phát ngôn… Như vậy, lí thuyết tự sự luôn là vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm. Nó có vai trò quan trọng và cần thiết trong việc tiếp cận tác phẩm văn học, đặc biệt là tác phẩm văn xuôi. Ở Việt Nam, ngoài những tác phẩm dịch thuật, ít có công trình nghiên cứu sâu về nghệ thuật tự sự từ phương diện lí thuyết. Giới nghiên cứu tự sự tập trung tìm hiểu, nghiên cứu về các phương diện của tự sự như thời gian và không gian trần thuật, cấu trúc của văn bản trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, tình huống trần thuật, điểm nhìn, giọng điệu, ngôi phát ngôn… Nói tóm lại, tất cả các thành phần của nghệ thuật tự sự đều được các học giả nghiên cứu và làm rõ qua các tác phẩm văn học. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Trong quá trình khảo sát tư liệu, chúng tôi được tiếp xúc nhiều với bài viết và công trình lí luận có quy mô khác nhau. Trước thành tựu của công cuộc đổi mới văn học dân tộc sau 1975, đặc biệt là thể loại truyện ngắn, các nhà nghiên cứu phê bình đã tập trung bút lực nhằm giúp bạn đọc tiếp cận và thẩm định những cách tân mới mẻ trong “bước ngoặt” của dòng chảy văn học hiện đại Việt Nam. 11 Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 đã được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm, đặc biệt là nghiên cứu từ góc nhìn tự sự, một vấn đề lí luận mới mẻ và còn nhiều “lời ngỏ”. Cuốn 50 năm - Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám [153] được chia làm ba phần Đặc điểm, diện mạo, hướng tiếp cận; Văn học và chiến tranh cách mạng; Những vấn đề thi pháp thể loại. Trong đó, chúng tôi chú ý đến bài viết Mấy nhận xét về nhân vật của văn xuôi Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Thị Bình [153, tr. 207 - 227]. Sau khi xác định tiêu chí, nguyên tắc xây dựng nhân vật của văn học sau 1975 trong thế đối sánh với văn học trước 1975, tác giả bài viết đã khẳng định nét mới rõ nhất trong việc xây dựng nhân vật là sự thay đổi mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật, giữa nhà văn và bạn đọc. Đó là “mối quan hệ bình đẳng, là xu thế đối thoại dân chủ giữa nhiều ý thức, mỗi nhân vật có thể có một điểm nhìn đời sống độc lập với điểm nhìn của tác giả” [153, tr. 218]. Văn học Việt Nam thế kỉ XX - Những vấn đề lịch sử và lí luận [46] là công trình khoa học trọng điểm của Đại học Quốc Gia Hà Nội do một tập thể Viện sĩ, Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ thuộc Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Viện Văn học, Đại học Sư phạm Hà Nội hợp tác biên soạn. Công trình đã dành hẳn phần ba để nghiên cứu về “Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 2000”. Trong đó, chương VI đề cập đến “Một số vấn đề thi pháp truyện ngắn hiện đại Việt Nam”. Các tác giả cho rằng giai đoạn 1975 - 2000 là “thời của truyện ngắn”, truyện ngắn thực sự khởi sắc, “các nhà văn đã có công tìm tòi nghệ thuật làm cho thể loại “nhỏ” có sức chứa”, “có khả năng khái quát hóa nghệ thuật đời sống theo chiều sâu” [46, tr. 261]. Và sau đó, họ tập trung nghiên cứu vào hai nhà văn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp - những tên tuổi được dư luận quan tâm và có vị trí trên văn đàn. Nguyễn Minh Châu được đánh giá là “một phong cách đa dạng và biến ảo vì thế giọng điệu cũng luân phiên cho phù hợp với đối tượng” với “giọng chủ âm là trữ tình lo âu”, gần cuối đời có hiện tượng pha giọng. Còn Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn “có công tìm tòi làm cho truyện ngắn đa dạng về hình thức”, là một hiện tượng văn học “hai lần lạ”, truyện ngắn của ông “có sức mạnh ở các chi tiết nghệ thuật”. Ta nhận thấy, bàn về vấn đề thi pháp truyện ngắn hiện đại Việt Nam, các tác giả đã 12 bày tỏ quan điểm về tình huống truyện, cốt truyện, các kiểu truyện ngắn hiện đại và nghệ thuật kể chuyện từ góc nhìn tự sự học. Tuy nhiên, những nhận xét vẫn chỉ dừng ở những nhận định khái quát, điểm xuyết mà chưa đi sâu vào nghiên cứu cấu trúc văn bản truyện kể. Văn học Việt Nam sau 1975 - những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy [158] là cuốn sách tập hợp những bài viết của Hội thảo khoa học do khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức. Cuốn sách được tập hợp theo ba phần Những vấn đề chung; Những vấn đề về văn xuôi và Những vấn đề về thơ. Chúng tôi quan tâm đến bài viết Quan niệm về thể tài truyện ngắn trong văn học Việt Nam sau 1975 của Phùng Ngọc Kiếm [158, tr. 192 - 202], Nghiên cứu và dạy học truyện ngắn hiện đại của Nguyễn Thanh Hùng [158, tr. 293 - 299], Một vài khuynh hƣớng vận động của điểm nhìn trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Văn Hiếu. Trong đó, bài viết của Nguyễn Văn Hiếu [158, tr. 300 - 306] tìm hiểu về sự vận động của điểm nhìn nghệ thuật trong tiến trình của văn xuôi sau 1975. Bài viết đã chỉ ra những khuynh hướng vận động nổi bật của điểm nhìn như khuynh hướng cá thể hóa, khuynh hướng đối thoại, khuynh hướng gián cách. Người viết khẳng định “Dấu ấn cá tính trong điểm nhìn trần thuật dần trở thành một tiêu chí của giá trị, một mối quan tâm của văn chương. Cá thể hóa là khuynh hướng vận động tất yếu của điểm nhìn, phù hợp với nhu cầu của nhà văn và yêu cầu của thời đại”; “Sức nặng của điểm nhìn mang tính đối thoại, một mặt xác lập các chuẩn mực mới, nhưng mặt khác nó đã làm nảy sinh ở người đọc tâm lí tự vấn trước hiện thực được kể đến”; “Nhà văn là NKC thường di chuyển điểm nhìn theo nhiều chủ thể khác nhau”; “Gián cách đòi hỏi người cầm bút phải tìm cách viết khác, người đọc phải hình thành một thị hiếu khác, phê bình văn học phải hình thành bậc thang giá trị khác” [158, tr. 300 - 305]. Tuy nhiên, những nhận xét này mới chỉ nằm trong khuôn khổ của một bài viết nên sự lí giải chưa thực thấu đáo. Tập hợp tâm huyết của nhiều nhà nghiên cứu phê bình, cuốn Truyện ngắn Việt Nam - Lịch sử, thi pháp, chân dung [47] do Phan Cự Đệ chủ biên đã được xuất bản năm 2007. Cuốn sách dày gần 800 trang nghiên cứu hai vấn đề là Truyện 13 ngắn Việt Nam thời kì trung đại và Truyện ngắn Việt Nam thời kì hiện đại. Các tác giả cũng tập trung làm rõ lịch sử phát triển của các khuynh hướng và loại hình truyện ngắn chỉ ra những nguyên nhân của quá trình đổi mới truyện ngắn từ 1976 - 2006; đặc trưng của thể loại truyện ngắn hiện đại, truyện ngắn trong mối quan hệ với các thể loại khác. Các tác giả đã lí giải về đặc trưng thi pháp của truyện ngắn hiện đại như kết cấu và cốt truyện, khoảnh khắc và tình huống; các kiểu của truyện ngắn hiện đại như truyện ngắn mang tầm khái quát cao, truyện ngắn liên hoàn và các kiểu truyện ngắn khác. Từ những vấn đề lí luận đó, các tác giả đã tiến hành nghiên cứu và định hình phong cách truyện ngắn của các thế hệ nhà văn từ Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao… đến các nhà văn kháng chiến như Anh Đức, Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng… và sau 1975 như Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp… Cuốn Tự sự học, những vấn đề lịch sử và lí luận [165] do Trần Đình Sử chủ biên đã tập hợp những bài viết về một số vấn đề cơ bản của lí thuyết tự sự học và những bài viết vận dụng lí thuyết tự sự học vào tìm hiểu văn liệu cụ thể. Chúng tôi đặc biệt chú ý tới bài viết Đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu - một thành công đáng chú ý của văn xuôi sau 1975 của Nguyễn Thị Bình [165, tr. 351 - 367]. Tác giả bài viết đề cập đến hai khía cạnh trong sự chuyển động mạnh mẽ của văn xuôi sau 1975 là ngôn ngữ và giọng điệu. Qua khảo sát, tác giả bài viết đã định dạng những phong cách ngôn ngữ mới ngôn ngữ mang nhãn quan hiện thực, đời thường Nguyễn Huy Thiệp, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Tạ Duy Anh…; ngôn ngữ tăng cường tính tốc độ, thông tin và tính triết luận Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài…. Sự đa dạng về giọng điệu cũng là nét mới của văn học sau 1975. Tác giả chỉ ra bên cạnh giọng tự tin, tự hào xuất hiện giọng hoài nghi trong sáng tác của Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp…; giọng chất vấn, đay đả trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng…; giọng từng trải, chiêm nghiệm trong sáng tác của Nguyễn Khải, Lê Lựu, Chu Lai, Phạm Hải Vân, Nguyễn Việt Hà…; giọng giễu nhại trong sáng tác của các nhà văn trẻ… Từ đó, tác giả đưa ra nhận xét khái quát “Mười năm đầu sau khi cuộc chiến tranh chống Mĩ kết thúc, văn xuôi nước ta mang giọng chủ 14 đạo trầm tĩnh, khách quan. Từ khoảng giữa thập kỉ 80, nổi lên giọng phê phán, phân tích xã hội …. Sau đó giọng phê phán trầm xuống …. Giọng điệu văn xuôi dần mang nhiều suy tư khắc khoải, nhiều chiêm nghiệm về thế sự nhân sinh. Từ đầu thập kỉ 90, nó bắt đầu thăng bằng lại, tự điều chỉnh những ồn ào thái quá” [165, tr. 367]. Đó là cái nhìn khá tinh tế và sắc sảo. Tuy nhiên, mọi sự phân tích, lí giải chỉ nằm trong phạm vi của một bài viết. Sự xuất hiện của thi pháp học hiện đại và những thành tựu của nó đối với lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy văn học ở nước ta là sự nỗ lực của nhiều người, trong đó phải kể đến vai trò quan trọng của Trần Đình Sử. Nhân dịp kỉ niệm 70 năm ngày sinh của ông, Nguyễn Đăng Điệp - Nguyễn Văn Tùng đã tuyển chọn và biên soạn công trình Thi pháp học ở Việt Nam [53]. Công trình gồm ba phần Phần I Toàn cảnh thi pháp học bức tranh toàn cảnh thi pháp học từ truyền thống đến hiện đại; các khuynh hướng thi pháp học trên thế giới; Phần II Tuyển chọn những công trình tiêu biểu bằng chứng cụ thể, sinh động nhất về sức sống và tính hiệu quả của thi pháp học trong đời sống nghiên cứu văn học; Phần III Ấn tượng Trần Đình Sử những đánh giá, nhận định về Trần Đình Sử. Trong công trình này, bài viết của Lê Huy Bắc về Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại [53, tr. 335 346] đã nêu ra những vấn đề mà chúng tôi đang quan tâm như khái niệm giọng voice, giọng điệu tone hoặc tone of view và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại. Tác giả đã tập trung vào ba kiểu giọng điệu thể hiện hai trạng thái tâm lí của NKC là giọng điệu dửng dưng và hoài niệm; giọng điệu trung tính người kể chuyện giữ sắc giọng bình thường khi trần thuật các sự kiện, hành động; giọng điệu vô âm sắc thái độ lạnh lùng; giọng điệu cảm xúc bộc lộ cảm xúc, tâm trạng, những chiêm nghiệm sâu xa.... Văn học Việt Nam sau 1975 có vị trí quan trọng trong dòng chảy của văn học dân tộc. Vì thế, những năm gần đây. Nó cũng được dành một vị trí xứng đáng trong văn học nhà trường, cuốn Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại, tập 2 từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 [123] xuất bản đã đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập của đông đảo các nhà giáo, học sinh, sinh viên. Chương X của giáo trình đề cập đến nội dung “Văn xuôi từ sau 1975” đã chỉ ra những đổi mới về tư tưởng và nghệ
Nằm trong sự chuyển đổi nhiều mặt của xã hội sau khi chiến tranh kết thúc, nền văn học Việt Nam cũng có sự vận động, biến đổi để đáp ứng nhu cầu chung của con người thời đại. Truyện ngắn là thể loại đáp ứng nhanh và linh hoạt hơn các thể loại khác trong giai đoạn chuyển tiếp của nền văn học từ thời chiến sang thời bình. Sự vận động và phát triển của truyện ngắn Việt Nam trong giai đoạn 1975 - 1985 là một hiện tượng mang tính tất yếu. Một mặt, do những thay đổi trong đời sống xã hội với phức tạp trong cuộc sống đời thường và sự đa dạng trong tính cách con người là những nguyên nhân trực tiếp thôi thúc quá trình đổi mới của thể loại. Truyện ngắn đã bứt phá những quy phạm thể loại, những hạn hẹp trong phạm vi phản ánh hiện thực để đáp ứng kịp thời và toàn vẹn những vấn đề của thực tại sau chiến tranh. Mặt khác, từ sau năm 1975 nhất là từ giữa những năm 80 trở đi với chủ trương dân chủ hóa văn học và sự mở rộng giao lưu với văn học các nước trong khu vực và trên thế giới đã dẫn đến những biến đổi quan trọng , sâu sắc nền văn học Việt Nam, trong đó có truyện ngắn. 125 trang Chia sẻ lylyngoc Lượt xem 4983 Lượt tải 6 Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975-1985, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênng cảnh ngộ, những bi kịch riêng thì đã hình thành rõ nét. Đó là số phận của người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Người đàn bà ấy đã từng là con một nhà khá giả, nhưng vì xấu nên không có ai lấy. Sau đó chị có mang với một anh con trai nhà hàng chài giữa phá và bắt đầu cuộc đời lênh đênh trên sông nước. Cuộc sống dưới thuyền không xuôn xẻ gì lại thêm một lũ con nheo nhóc khiến anh chồng từ một anh con trai cục tính nhưng hiền lành không bao giờ đánh đập vợ con trở thành một kẻ vũ phu. Bi kịch của đàn bà ở chỗ cứ ba ngày bị chồng đánh một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng vậy mà chị ta một mực khăng khăng xin quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó[11/342]. Tại sao một người bị chồng đánh một cách tàn nhẫn lại không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy? Vì sao chị ta thà hàng ngày chịu đòn của chồng chứ nhất định không li dị hắn? Thì ra, ngã chồng ấy là chỗ dựa quan trọng trong cuộc đời của người đàn bà làng chài, nhất là những khi biển động. Hơn thế chị còn phải nuôi những đứa con, chị đâu chỉ sống cho riêng mình, chị còn phải sống vì chúng nữa. Mặt khác cuộc sống trên thuyền cũng có lúc bình yên, vợ chồng con cái sống vui vẻ, thuận hoà. Dường như trong hoàn cảnh này, cách hành xử của người đàn bà này là không thể khác. Giải pháp bỏ chồng mà ông chánh án đưa ra cho trường hợp của chị là không khả thi. Bởi hơn ai hết người đàn bà ấy hiểu rằng chị đau đớn về thân thể nhưng không thể oán giận chồng. Số phận của anh ta cũng nghiệt ngã chẳng kém gì chị. Anh ta đáng bị lên án bởi sự vũ phu và bởi tự cho phép mình cái quyền được hành hạ người khác để thoả mãn những bực bội trong lòng. Nhưng anh ta cũng đáng nhận được sự cảm thông bởi gánh nặng gia đình. Xét đến cùng anh ta chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. ở đây Nguyễn Minh Châu nhìn nhận số phận của con người trong cuộc sống không đơn giản mà đa diện, nhiều chiều. Bởi thế người nghệ sĩ bao giờ cũng nhìn thấy đằng sau cái màu hồng của ánh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 sương mai trong bức ảnh còn là hình ảnh người đàn bà làng chài bước ra khỏi tranh. Chị là hiện thân của những lam lũ khốn khó đời thường nhưng cũng tiềm ẩn trong đó những vẻ đẹp bình dị của cuộc sống. Số phận của chú bé Kiểm Kiểm - chú bé- con người của Ma Văn Kháng lại khiến người đọc không khỏi day dứt. Bố mẹ bỏ nhau, Kiểm ở với bố, mẹ kế và hai đứa em cùng cha khác mẹ. Trên thân thể em thường hằn lên những dấu vết của những trận đòn và sự hành hạ từ bà mẹ kế. Bà dì vốn cưng chiều con mình, để thoả mãn tình thương ấy bà phải hành hạ, trút cái vất vả khổ cực lên đầu em. Thậm chí cả hai đứa trẻ cũng sớm bị ảnh hưởng cái thói cay nghiệt, cái đặc quyền được đày đoạ con chồng nên đành hanh, nhiều khi quái ác đổ tội lên thằng anh để nó lại phải hứng chịu đòn oan. Một đứa trẻ không may rơi vào cảnh ngộ éo le này, rất dễ trở nên cằn cỗi, thui chột hết cái mầm nhân bản, hết khả năng yêu thương, thậm chí là lạnh lùng, nhẫn tâm với đồng loại. Nhưng Kiểm không chai lì, không tàn nhẫn. Bị vùi dập và dồn vào cảnh thiếu thốn cả vật chất lẫn tình cảm thì em vãn còn giữ được một khoảng cách, chưa đồng hoá với cái xấu. Em yêu thương và chăm sóc chu đáo cho hai đứa em cùng cha khác mẹ với tư cách là một người anh. Em sẵn sàng giúp đỡ và chia sẻ với những người nghèo khó. Khi người mẹ kế lâm bệnh, em đã tự nguyện trở về với một tình yêu vừa non tơ vừa quảng đại và quả cảm. Bởi em nghĩ suốt đời làm người khác khổ thì mình có sung sướng gì đâu. Kiểm là hệ quả của số phận rắc rối giao tiếp qua nhau, là hệ quả những va đập dưới áp lực của những quan niệm đạo đức và dục vọng khác nhau. Sự mưu cầu lợi ích vị kỷ, sức thôi thúc của dạ dầy và trái tim, lầm lỡ cả những tái tạo hồi sinh đã đảo lộn cơ tầng đời sống… làm nảy sinh những đứa trẻ bơ vơ, mất nơi nương tựa và bẽ bàng[31/84]. Nhân vật Dì Út trong truyện ngắn cùng tên của Thanh Quế cũng là một số phận mang đầy tính bi kịch. Đó là người phụ nữ phải chịu cả nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần. Sau khi tiễn chồng đi tập kết ở Miền Bắc, người phụ nữ này thường xuyên bị bọn Mỹ nguỵ bắt đi tù, đánh đạp tra khảo luôn. Đau đớn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 hơn cả là đứa con gái duy nhất cũng chết vì bệnh trong lúc chị đang ở tù. Sau ngày miền Nam giải phóng, chị vẫn nuôi mẹ chồng và chờ chồng nhưng chồng chị thì không một lần trở lại. Hoá ra anh ta giờ đã là một quan chức, lại sắp đi làm tuỳ viên kinh tế ở nước ngoài. Để leo lên được địa vị đó, anh ta sẵn sàng bịa ra một cái thư giả của một người đã chết vu oan, bêu xấu vợ để lừa tổ chức. Khi vợ biết chuyện, anh ta một mặt đổ thừa cho hoàn cảnh, mặt khác quỳ xuống van vỉ chị bỏ qua. Những người thân muốn chị vạch mặt kẻ bội bạc dối trá kia nhưng chị giữ im lặng. Nếu làm như thế liệu vết thương lòng của chị có thể nguôi ngoai hay chị sẽ chỉ nhận được nhiều ánh mắt cảm thương hơn của người khác? Sự im lặng ấy là biểu hiện cuả lòng bao dung hay sự chấp nhận thực tại phũ phàng? Số phận của con người đã đi qua chiến tranh không chỉ có vầng hào quang mà còn có cả những đau thương mất mát. Khi viết về cái đa đoan của con người trong cuộc sống, truyện ngắn sau 1975 cũng xuất hiện kiểu nhân vật cô đơn. Trong những năm chiến tranh không có con người cô đơn mà chỉ có con người tập thể, con người quần chúng. Xung quanh họ là bạn bè, đồng chí, dân tộc… con người không có điều kiện để soi ngắm tâm hồn mình. Sau 1975, với quan niệm con người cá thể, với sự thức tỉnh ý thức cá nhân thì kiểu nhân vật cô đơn không phải là hiếm. Hơn nữa ở giai đoạn giao thời trong bề bộn cuộc sống thì thật - giả, trắng - đen, tốt -xấu không phải lúc nào cũng minh bạch như hồi chiến tranh. Con người có lúc hoang mang trước nhiều lựa chọn. Vì thế con người cô đơn trở thành một điểm xoáy thu hút nhiều tác giả truyện ngắn. Bằng nhiều cách, mỗi nhà văn đã đi vào khám phá các phương diện khác của sự cô đơn. Nguyễn Minh Châu đi vào nỗi bất hạnh của con người sau chiến tranh với một khoảng trống trong tâm hồn không gì bù đắp nổi Quỳ- Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. Dương Thu Hương lại xây dựng một kiểu nhân vật cô đơn đi tìm kiếm hạnh phúc, thứ hạnh phúc không thể với được trong tầm tay Ngân- Những bông bần li. Nhân vật cô đơn trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng thì tìm cách thì chạy trốn quá khứ ông Thiềng- Ngày đẹp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 trời. Còn Nghĩa Căn nhà ở phố- Nam Ninh lại cô đơn lạc lõng ngay chính gia đình của mình. Đến nỗi anh phải tạo ra một kịch bản giả viết thư cho chính mình để tìm một cái cớ hợp lý cho việc rời khỏi gia đình. Nhiều nhân vật cô đơn trong truyện ngắn sau 1975 là những con người vừa bước ra khỏi chiến tranh. Họ không dễ dàng hoà nhập với những thay đổi trong cuộc sống hoà bình. Tuy nhiên ngày càng xuất hiện những nhân vật cô đơn về trạng thái tâm hồn. Đó là sản phẩm của những va đập trong cuộc sống đời thường, trong những quan niệm đạo đức nhân sinh trong cách ứng xử như nhân vật Đính trong Người không đi cùng chuyến tàu của Nguyễn Quang Thân. Anh là một con người có tài năng và trách nhiệm cao trong công việc. Anh luôn tìm ra một phương án tối ưu để sửa chữa cho những dự án sai lầm. Đó là một công việc rất hữu ích nhưng không phải lúc nào cũng được mọi người ủng hộ. Người cho rằng anh đang chống lại tập thể, người lại tưởng anh đang tranh chấp quyền lực, đến người anh yêu cũng không dám ra mặt ủng hộ anh. Vì thế, cuộc sống của anh luôn vấp phải rất nhiều những hiểu lầm, những lời chỉ trích gay gắt và suốt cuộc đời anh đã luôn phải đấu tranh cho chân lý trong cô đơn. Như vậy, cô đơn thực chất là chuyện của những số phận, những con người cá nhân nhưng nó không phải là vấn đề riêng tư, nhỏ bé. Đi vào từng mảnh đời cô độc là những vấn đề mang tính xã hội lớn lao. Thể hiện con người cô đơn chính là biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong truyện ngắn sau 1975 để góp phần giúp cho người đọc hiểu rõ hơn những tình cảm sâu kín thuộc về vấn đề con người. ở mỗi truyện ngắn sau chiến tranh là từng cá thể, từng mảnh đời thầm lặng hay sôi động. Chân dung và số phận con người đã được thể hiện khá sinh động sâu sắc, đa chiều. Đi sâu vào tâm hồn con người, nhà văn thấy được ở mỗi số phận ấy từng niềm vui, nỗi buồn hay sự đau khổ, khao khát, đam mê. Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 Có ý kiến cho rằng truyện ngắn sống bằng nhân vật và nó bộc lộ đầy đủ những đặc tính của thể loại, mở ra cho văn học những đề tài, những vấn đề mới của đời sống bằng những hình tượng văn học. Nếu truyện ngắn 1945- 1975 thể hiện quan niệm con người tập thể, con người quần chúng nên nhân vật thường được thể hiện trong các sự kiện, biến cố lịch sử thì truyện ngắn sau 1975, trở về con người cá nhân. Nhân vật thường được thể hiện qua các mối quan hệ đời thường, qua thế giới nội tâm, qua miền ý thức, vô thức đầy bí ẩn, phức tạp. Với xu hướng khám phá, thể hiện con người mới mẻ như vậy, truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 đã hình thành một số kiểu nhân vật mới. Cách biểu hiện nhân vật cũng đang có những chuyển biến mới. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật Văn học Việt Nam 30 năm chiến tranh xây dựng con người quần chúng, con người hiện thân cho ý chí cách mạng. Đó là những con người cầm súng và quyết thắng lấn át con người bình thường, con người tinh thần, ý chí nổi lên trên con người vật chất, con người vì nghĩa lớn lấn át con người riêng tư[81/428].Việc đi sâu khai thác tâm lí con người chưa được coi là một thao tác bình thường trong văn học giai đoạn này. Tuy nhiên, khi văn học trở về với con người cá nhân, con người trong cuộc sống đời thường thì việc miêu tả tâm lí con người lại như một lợi thế của văn xuôi nói chung. Bởi lẽ khi các tác giả tập trung sự chú ý vào quá trình hình thành cá tính, tính cách của con người tất yếu sẽ dẫn đến sự tăng cường yếu tố phân tích tâm lí và khắc họa cá tính nhân vật. Khảo sát truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 có thể nhận thấy, các nhà văn đã khá nhạy bén trong việc miêu tả tâm lí, cá tính, tư tưởng của con người. Tuy nhiên, đó mới chỉ là sự miêu tả những xung đột nội tâm, những rung động trong cảm xúc, những biến đổi trong tâm lí nhân vật chứ chưa hoàn toàn nắm bắt trọn vẹn một quá trình tâm lí, tư tưởng để xây dựng những hình tượng nghệ thuật có sức sống lâu bền. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 Trong khi miêu tả tâm lí nhân vật, các tác giả thường để cho nhân vật tự ý thức về bản thân mình trong những mối quan hệ với xung quanh, tự mình bộc lộ với chính mình những suy nghĩ và cảm xúc chân thực nhất. ở đó thủ pháp độc thoại nội tâm được sử dụng một cách hữu hiệu để nhân vật tự bộc lộ những suy tư, trăn trở của bản thân. Những tiếng nói từ bên trong, những lời tự vấn của người họa sĩ trong Bức tranh Nguyễn Minh Châu chính là động lực thúc đẩy sự phát triển tính cách của anh ta. Lúc đầu, khi phát hiện ra lỗi lầm do sự thất hứa của mình, anh ta đã day dứt Tại sao ngày ấy tôi đã không dưa tấm ảnh đén cho gia đình anh? Tại sao tôi không giữ lời hứa? Tôi đã hứa với anh và cả tôi nữa, đinh ninh và hùng hồn lắm, và cũng thực tâm lắm chứ?[11/126]. Rồi chính anh lại tự biện minh cho việc làm của mình Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là anh thợ vẽ truyền thần, công việc của người nghệ sĩ là phải phục vụ cả số đông, chứ không phải chỉ phục vụ một người[11/127]. Những lời tư biện này chứng tỏ anh ta chưa thấy được hết cái nguy hiểm của thói quen lấy lợi ích cộng đồng làm bình phong che chắn cho hành vi thất hứa của mình. Vì thế, xung đột nội tâm của nhân vật chưa dừng lại ở đó mà được đẩy cao hơn trong cuộc đối thoại tưởng tượng với người thợ cắt tóc. Đó là một thứ trảm hình trong lòng nhân vật để anh ta nhận ra cái bộ mặt thật của mình vừa được lột ra khỏi cái mặt nạ hàng ngày. Truyện ngắn này lôi cuốn người đọc bởi cách xoáy sâu vào tâm lí nhân vật và nghệ thuật tạo căng thẳng dần, siết chặt dần từ cảm giác ân hận bị dìm xuống đến lòng hối hận bùng lên, rồi một niềm ăn năn không dứt mãi không thôi trong lòng nhân vật. ở đây, tác giả đã cố gắng đưa nhân vật đi đến tận cùng sự phân tích bên trong để nhìn rõ chính nó. ở Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Nguyễn Minh Châu tỏ ra là cây bút có khả năng phân tích và thể hiện được những biến động tâm lí khá phức tạp của một tâm hồn không đơn giản như Quỳ. Nhà văn chọn cho câu chuyện của mình bằng dạng thức tự kể của nhân vật chính. Đó là những lời kể chân thành như lời tự thú của Quỳ. Rồi cứ thế cả thiên truyện dần dần hiện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 ra cùng vói việc khám phá phần cốt lõi khó khăn phức tạp đầy biến động nhất của nội tâm, đó là các cuộc tình của Quỳ. Đúng là để xây dựng nhân vật này, Nguyễn Minh Châu đẫ phải huy động một khối lượng đậm đặc những chi tiết, những chi tiết buộc phải có nhiều kinh lịch trên đường viết văn, một quan sát tinh tế lắm, một vốn hiểu biết về nhân vật sâu sắc mói có thể có được[81/311]. Mỗi nhà văn trong từng truyện ngắn của mình có những khám phá riêng về đời sống tâm hồn của nhân vật. Nếu Vũ Tú Nam trong Đi đón cơn mưa miêu tả thành công những xao động trong tâm hồn của một người thầy giáo khi biết được tình cảm của một người phụ nữ có số phận bất hạnh dành cho mình thì Thùy Linh lại đọc ra được một nghị lực ghê gớm, một sự thèm khát tình yêu của bố mẹ trong đôi mắt vốn lạnh lùng của cậu bé Nguyên Mặt trời bé con của tôi. Phạm Thị Minh Thư miêu tả những trạng thái tâm hồn đầy tinh tế, thơ mộng và tràn đầy niềm tin của nhân vật trong một đêm tản cư mà có lẽ chẳng sự tàn bạo, khốc liệt nào đè bẹp nổi Có một đêm như thế. Dù rằng mỗi tác giả truyện ngắn mới chỉ đi vào miêu tả tâm lí nhân vật trong từng thời khắc nhất định chứ chưa phải là toàn bộ quá trình tâm lí thì điều này cũng đã góp phần làm cho nhân vật được soi chiếu ở nhiều bình diện. Mặt khác khi đi vào miêu tả tâm lí nhân vật, các cây bút truyện ngắn còn sử dụng yếu tố tâm linh như một biện pháp để khám phá sâu hơn nội tâm nhân vật. Với các hình thức giấc mơ, điềm báo, đối thoại giữa những mảng tâm linh… nhờ đó chất người được bộ lộ đa chiều, đa diện hơn. Dưới hình thức những cơn mộng du Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành Nguyễn Minh Châu đã khắc họa sâu sắc những tình cảm của một người đàn bà suốt đời lang thang đi tìm chân trời của những giá trị tuyệt đối. Cả thiên truyện dường như được bao bọc trong một bầu không khí phảng phất màu sắc mộng mị, huyền thoại. Nhiều lần trên con tàu mộng du của Quỳ yếu tố tâm linh đã xuất hiện góp phần soi tỏ nội tâm nhân vật. Chẳng hạn khi gặp pho tượng Phật ngàn tay ngàn mắt ở một ngôi chùa trong một lần đi công Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 tác, Quỳ nghĩ ngay đến đôi bàn tay của người trung đoàn trưởng đã hi sinh. Quỳ nâng vạt áo quân phục dính đầy dầu mỡ lên lau sạch những lớp bụi bám trên một bàn tay. Nhưng khi vừa chạm tới, vạt áo của chị đã ướt đẫm mồ hôi, y như mồ hôi người cứ dấp dính toát ra từ chất gỗ. Và cảm giác của nhân vật lúc này hoàn toàn được soi chiếu từ ánh sáng của tâm linh Tôi sợ hãi lùi ra xa, ngước nhìn khuôn mặt ấy tự nhiên tôi bỗng hoảng hốt khi nhận ra đang phảng phất trên cặp môi bằng gỗ, vẫn cái nụ cười ấy, cái nụ cười bí ẩn mà tôi đã trông thấy rất nhiều lần hiện lên trên cặp môi anh ấy trước khi chết[11/164]. Dưới hình thức của một giấc mơ, truyện ngắn Mai Thanh Quế lại bộc lộ được những diễn biến tâm trạng nhân vật người cha sau nhiều ngày đi tìm mộ con không đem lại kết quả gì. Một buổi sáng khi ông vừa định trở dậy thì chẳng hiểu vì lí do bí ẩn nào một cơn buồn ngủ đến nhức cả mắt kéo ông nằm xuống. Ngay lập tức một cơn mơ lạ đến với ông. Trong giấc mơ, ông đã gặp con gái mình trong một rừng dương. Kì lạ thay giấc mơ ấy lại trùng với manh mối để tìm ra mộ con ông. Ông thấy cái việc tìm mộ con có điều gì thật bí ẩn, nó giông giống như trong giấc mơ. Phải chăng vong hồn cô con gái đã mách bảo cho người cha? Hay đó chính là cái ánh sáng được phát ra từ thế giới bên trong như một sự mác bảo của tâm linh? Bởi lẽ vốn từ xưa ông không hề mê tín. Nhưng hôm nay, tự nhiên ông thấy trong lòng ông rao rực, tai ông nóng bừng và chung quanh nhà ông lâu nay im ắng bỗng có một bầy chim lạ về chao hót[67/273]. Diễn tả cái khoảnh khắc biến động trong tâm hồn người cha từ đời sống tâm linh như thế cũng là một cách đi vào chiều sâu tâm hồn nhân vật. ở Những bông bần li Dương Thu Hương thì sự kết hợp của hai yếu tố thực và ảo cũng góp phần soi sáng chiều sâu tâm thức nhân vật. Nếu cuộc sống hiện tại với người chồng hờ hững vô tâm chỉ đem lại cho Ngân những bực bội, đau khổ thì hình ảnh và sự hi sinh của Nghiêm người yêu trong quá khứ của Ngân lại đem đến cho chị những sự nâng đỡ. Dù rằng những tình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 cảm ấy chỉ như một tiếng sấm vọng về từ cuối trời xa khi cơn giông đã qua đi lâu lắm thì nó vẫn làm cho người đàn bà ba mươi lăm tuổi ấy lần đầu tiên biết nghĩ đến đời mình một cách thấu đáo. Cũng là lần đầu tiên chị tìm thấy nguồn sáng riêng biệt cho đường đi của mình[67/157]. Sự soi rọi từ bóng hình của người chiến sĩ đã hi sinh có tác động thăng bằng và thanh lọc tâm hồn Ngân. Nó như một luồng ánh sáng thoạt đầu còn mỏng manh như sợi khói trong cõi vô thức xa xôi nhưng dần dần nó rõ nét hơn, lớn hơn choán hết tâm trí chị. Như vậy, trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 phương diện đời sống tâm linh con người được khám phá ở một chiều sâu mà giai đoạn trước đó chưa đạt đến. Nó góp phần làm phong phú trong quan niệm nghệ thuật về con người và tạo ra những biến đổi quan trọng trong phương thức biểu hiện nhân vật. Nhìn chung, việc khám phá sâu vào lĩnh vực tâm linh, mở ra những miền phong phú, bí ẩn không cùng của con người chính là xuất phát từ một quan niệm không đơn giản, xuôi chiều về con người, từ ý muốn khám phá con người ở nhiều thang bậc giá trị, ở những tọa độ ứng xử khác nhau, ở nhiều chiều kích[21/288]. Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong những chiều thời gian khác nhau Bên cạnh việc phân tích tâm lí, nhân vật còn được đặt trong dòng thời gian và lịch sử, trong các khả năng lựa chọn và thích ứng, trong những nghịch lí của tồn tại, trong sự khác biệt của những người hôm qua và những người hôm nay. Nguyễn Văn Long cho rằng giải pháp nghệ thuật mà một số truyện ngắn đã tìm đến là đặt nhân vật vào trong những chiều thời gian khác nhau, đan cài giữa hiện tại và quá khứ để làm nổi bật nghệ thuật này trong đời sống tinh thần và số phận mỗi con người khác nhau[39/218]. Việc sử dụng thời gian đồng hiện thường đi liền với những đối thoại bên trong của nhân vật như là những thủ pháp giúp nhà văn đi sâu hơn vào thế giới bên trong, vào những diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp của con người. Có thể kể đến những truyện ngắn đã thành công trong việc sử dụng giải pháp nghệ thuật này như Sống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 trong thời gian hai chiều Vũ Tú Nam, Có một đêm như thế Phạm Thị Minh Thư, Gió từ miền cát Xuân Thiều, Người không đi cùng chuyến tàu Nguyễn Quang Thân… ở những truyện ngắn này việc đan xen giữa hiện tại và quá khứ thể hiện sự phân thân trong đời sống tinh thần của con người. Giữa những lo toan đời thường sau chiến tranh, con người vẫn dành một phần tâm tưởng cho quá khứ. Nhiều lần hiện tại mờ đi hoặc đi soi sáng nhờ quá khứ. ở Những bông bần li, quá khứ đã trở thành nỗi ám ảnh trong nhân vật Ngân. Quá khứ với một người yêu đã hi sinh nhưng đôi mắt nâu dài, khi cười như có nắng của anh vẫn luôn theo chị. Đặc biệt là những lời nói cuối cùng của anh trước khi ra đi trong cuộc chiến đấu lâu dài này, tụi mình hi sinh phải lí hơn, tụi mình già rồi. Các cậu còn trẻ các cậu phải ở lại để đánh giặc cho tới lúc chiến thắng [67/153]như một sự thức tỉnh tâm hồn chị, giúp chị một lựa chọn đúng đắn trong cuộc sống hiện tại Những bài học lịch sử…đó chính là luồng sáng lung linh nâng đỡ cuộc đời chị. Chị sẽ giáo dục các con chị, những học sinh nhỏ bé của chị, những thế hệ sau này biết rung động sâu xa trong đời sống chung, với những cội nguồn đem đến cuộc sống cho chúng[67/157]. Đúng như tên gọi của nó Sống trong thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam lại như một bản kiểm điểm chân thành của nhân vật trước dòng chảy của thời cuộc. Tác giả đặt nhân vật ở thời điểm ngoái nhìn lại quá khứ sau khi đã từng kinh qua hai cuộc kháng chiến. Chỉ mấy ngày trở lại quê hương nhưng ông An đã sống trong hai chiều thời gian của mấy chục năm. Thời gian đã cật vấn ông, nhào nặn ông, phán xét và thúc đẩy ông[67/866]. Nếu thời trẻ khi đi vào cách mạng lòng ông luôn phơi phới, tưởng như cái gì cũng đơn giản, dễ dàng thì khi cuộc sống trở về hoàn cảnh bình thường lại đặt ông trước bao mối quan hệ mới mẻ buộc phải lựa dòng đời, trước dòng thời gian, ông đã phải dừng lại để suy ngẫm chúng nó con cháu mình đi xuôi thời gian, các cụ ngược về dĩ vãng, còn mình thì đứng giữa ư? Hay Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 theo hướng nào ?[67/850] Sự đồng hiện về thời gian ở truyện ngắn này gúp nhà văn đi sâu hơn vào những diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật. Cái quá khứ trong veo, thoảng hương hoa loa kèn và âm hưởng của giọng nói vừa giễu cợt vừa trìu mến lại như một luồng gió tươi mát ùa vào tâm hồn mệt mỏi Miên Có một đêm như thế- Phạm Thị Minh Thư. ở truyện ngắn này, cái ánh sáng rạng rỡ của ngày hôm qua vẫn tiếp tục chiếu rọi vào cuộc sống hàng ngày hôm nay như nâng bước cho con người trong cuộc sống hiện tại. Trong Khách ở quê ra Nguyễn Minh Châu thời gian hiện tại và quá khứ đan cài vào nhau theo dòng chảy tâm trạng của nhân vật Khúng. Nhiều truyện ngắn khác lại có cuộc hành trình ngược về quá khứ như tìm đến một nguồn sức mạnh tinh thần để đi tiếp hành trình đến tương lai Tuổi thơ im lặng, Gió từ miền cát . Có thể nói, trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-1975, vấn đề thời gian chưa có nhiều ý nghĩa trong đời sống nội tâm con người như giai đoạn sau 1975. Đây không phải là thời gian của những sự kiện lớn lao hay thời gian vĩnh hằng trong dòng chảy của nó mà là thời gian trong ý thức của cá nhân, ý thức về từng khoảnh khắc đang sống. Đó là thời gian của những tâm trạng, gắn với những biến động trong đời sống mỗi con người cá thế việc đặt nhân vật vào những chiều thời gian khác cũng là một cách để miêu tả sâu sắc hơn đời sống nội tâm của con người . thuật trần thuật Theo từ điển thuật ngữ văn học trần thuật là phương diện cơ bản của thể loại tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của chủ thể trần thuật. Nghệ thuật trần thuật là cả một hệ thống tổ chức phức tạp nhằm đưa hành động lời nói nhân vật vào đúng vị trí của nó để người đọc lĩnh hội theo ý định tác giả. Trong trần thuật có nhiều phương diện điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật…ở luận văn này chúng tôi chỉ khái quát những dấu hiệu đổi mới của nghệ thuật trần thuật trên các phương diện chính. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật Điểm nhìn văn bản là phương thức phát ngôn, trình bày, miêu tả phù hợp trong cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của các tác giả. Khái niệm điểm nhìn mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức, đánh giá, cảm thụ của chủ thể đối với thế giới. Nó là vị trí dùng để quan sát, cảm nhận, đánh giá bao gồm cả khoảng cách giữa chủ thể và khách thể, cả phương diện vật lý, tâm lý văn hoá[78]. Khảo sát truyện ngắn giai đoạn 1975-1985 cho thấy, điểm nhìn trần thuật được tổ chức chủ yếu từ ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Trần thuật ở ngôi thứ nhất, là hình thức mới xuất hiện trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Đây cũng là hình thức nghệ thuật được truyện ngắn nói riêng và văn xuôi nói chung sử dụng chủ yếu ở hai dạng cụ thể Trần thuật từ ngôi thứ nhất với vai trò người dẫn truyện hoặc trao cho nhân vật chức năng trần thuật từ ngôi thứ nhất về hình thức nhân vật có thể xưng tôi nhưng không phải là tác giả. Trần thuật ở ngôi thứ nhất trong vai trò người dẫn truyện thực chất chủ thể trần thuật được nhân vật hoá để thực hiện vai trò dẫn truyện. Trước năm 1975, tuy chủ thể trần thuật cũng được nhân vật hoá nhưng thực chất vẫn là cái tôi hướng ngoại đại diện cho cộng đồng. Còn sau 1975, đó là cái tôi hướng nội, là sự trần thuật theo quan điểm cá nhân. Đó là nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, nhân vật tôi Mặt trời bé con của tôi- Thùy Linh, nhân vật tôi Hạnh Nhơn - Nguyễn Thành Long...Với kiểu trần thuật này, người kể truyện thường xưng tôi đóng vai trò trung tâm, giữ quyền kể truyện từ đầu đến cuối chuyện. ở một số truyện hầu như tôi là nhân vật duy nhất, còn những nhân vật khác chỉ được miêu tả từ điểm nhìn của người kể truyện Hạnh Nhơn. Qua hình thức kể truyện này, người kể truyện - tác giả - đã thể hiện tư tưởng tình cảm của mình một cách tự nhiên. ở truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa trong khi kể lại cảnh người chồng đánh vợ một cách tàn bạo, người kể truyện đã bộc lộ ngay thái độ của mình Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi, chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới[11/336]. Còn ở truyện Hạnh Nhơn, trong tình huống nhận lầm cha của cô bé Hạnh Nhơn người kể chuỵện đã rất dễ dàng bộc lộ những băn khoăn suy nghĩ của mình Cuộc đời của em như thế nào mà em phó thác giọt máu đó của em cho anh? Tôi rất bối rối trong tình huống khó xử đó…Vậy thì tôi giải quyết như thế nào ý muốn của người đã khuất[8/309]. Như vậy, qua hình thức trần thuật này, thường là những nhân vật hướng nội, có đời sống nội tâm phong phú, có quá trình diễn biến tâm lí phức tạp. Người trần thuật cũng là người tham gia vào câu chuyện và nhiều khi in đậm dấu ấn của chính tác giả với những trạng thái tâm hồn, cảm xúc hoặc cuộc đời, số phận riêng không phẳng lặng. ở dạng thứ hai trong cách trần thuật từ ngôi thứ nhất thường là các nhân vật được tác giả trao cho chức năng trần thuật. Đó là Quỳ Người đà bà trên chuyến tàu tốc hành, là Miên Có một đêm như thế là Ngân Những bông bần li…Trao cho nhân vật nhiệm vụ trần thuật hoặc người kể truyện đứng đằng sau nhân vật, nhà văn không tham gia vào quá trình diễn biến câu chuyện mà để cho các nhân vật tự kể lại cuộc đời, số phận của mình. Cách trần thuật này giúp cho nhà văn có thể soi vào phần khuất lấp trong ý nghĩ của nhân vật vì người trần thuật vừa là nhân chứng vừa là nhân vật chính của câu chuyện. Với cách trần thuật từ ngôi thứ ba, chủ thể trần thuật là người biết hết mọi người, mọi việc và giữ vai trò duy nhất trong miêu tả, kể chuyện, dẫn chuyện. Trong truyện ngắn giai đoạn trước 1975, điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ ba thường tạo ra khoảng cách giữa người kể chuyện và đối tượng kể. Thời kỳ sau 1975, các nhà văn thường trần thuật từ ngôi thứ ba nhưng có sự hoà nhập song trùng chủ thể khiến cho khoảng cách giữa nhà văn và nhân vật được thu hẹp dần. Từ điểm nhìn bên ngoài để khẳng định cho một tư tưởng có sẵn, điểm nhìn trần thuật dịch chuyển vào bên trong ở lối trần thuật này, tác giả không chỉ kể mà còn đi sâu miêu tả tâm trạng bên trong nhân vật trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107 những lời độc thoại, những hồi tưởng, nhận thức, suy tư, chiêm nghiệm. Những truyện ngắn về đề tài thế sự của Nguyễn Minh Châu thường được trần thuật từ điểm nhìn này Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hằng, Hương và Phai, Lũ trẻ ở dãy K… Trần thuật theo cách này, lúc đầu nhà văn trọn một điểm nhìn tương đối khách quan bên ngoài sau đó di chuyển điểm nhìn vào bên trong nhân vật. ở đó cái nhìn như xuyên qua nội tâm nhân vật trong một tính chất hoà nhập đậm nét đến mức tạo cho người đọc có cảm giác tác giả đã hoá thân vào nhân vật của mình, nhìn thế giới theo con mắt của nhân vật thâm nhập vào suy nghĩ và ấn tượng của nhân vật. Truyện Sống mãi trong cây xanh của ông tiêu biểu cho cách trần thuật này. Lúc đầu, khi miêu tả công việc của bác Thông tác giả tỏ ra khách quan như người đứng ngoài chứng kiến vừa miêu tả, vừa kể lại. Nhưng khi kể đến việc chặt cây sấu, người kể chuyện như nhập hẳn vào nội tâm nhân vật, sống trong những tâm trạng đau đớn xót xa như sắp phải đứng để cho người ta cưa tay cưa chân mình. Sự hoà nhập, thậm chí hoá thân đó đã giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới nội tâm phong phú, phức tạp, những diễn biến tâm lí tinh vi của nhân vật trong mối quan hệ với thế giới đa dạng, đa chiều . Truyện ngắn giai đoạn chiến tranh thường có một giọng, một điểm nhìn trần thuật. Nhưng trong các truyện ngắn sau 1975, xu hướng chung là có sự phối hợp các điểm nhìn trần thuật. Có điểm nhìn người dẫn truyện, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn bên trong, bên ngoài, điểm nhìn không gian thời gian, điểm nhìn đánh giá tư tưởng cảm xúc ...Tác giả để cho các điểm nhìn này đan cài vào nhau vì thế nhân vật được soi chiếu từ nhiều góc độ, được khắc hoạ toàn vẹn hơn về chân dung, tính cách, số phận để từ đó khái quát lên những vấn đề có tính triết lí. Chiếc thuyền ngoài xa Nguyễn Minh Châu là một trong những truyện ngắn tiêu biểu cho việc phối hợp các điểm nhìn. Số phận đầy bi kịch của người đàn bà làng chài được Nguyễn Minh Châu soi chiếu từ nhiều điểm nhìn khác nhau của các nhân vật. Mỗi nhân vật một cách nhìn. Với cái nhìn của trẻ con vô tư, yêu ghét rạch ròi thì thái độ của thằng Phác là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108 giận giữ nhảy xổ vào người bố để chống trả lại những trận đòn bảo vệ mẹ nó. Còn chị nó đã đủ lớn khôn hơn để ngăn giữ nó lại. Vị chánh án thì một mực đưa ra giải pháp li hôn và cho đó là cách giải quyết duy nhất để giải thoát cho người đàn bà kia khỏi sự vũ phu của người chồng. Nhà nhiếp ảnh thì vô cùng phẫn nộ trước cảnh tượng hết sức vô lí. Nhưng người đàn bà, nạn nhân của tấn bi kịch, lại khiến người khác giật mình lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải người là làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc[11/343]. Một người đàn bà với lũ trẻ đâu có sống dễ dàng gì giữa mênh mông sông nước nếu thiếu đi bàn tay chèo chống của người đàn ông. Người đàn bà ấy không sống cho mình mà sống vì những đứa con kia. Với sự đa dạng về điểm nhìn như thế, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là sự phát hiện ra những vấn đề nhức nhối của đời sống con người, buộc người đọc phải trăn trở trong những câu hỏi không dễ tìm lời giải đáp . Như vậy sự đa dạng và sự chuyển dịch liên tục các điểm nhìn trần thuật đã tạo ra cho các tác giả nhiều cách thức khác nhau khi tiếp cận hiện thực và thể hiện tư tưởng nghệ thuật của mình. Đồng thời sự phong phú về điểm nhìn cũng là điều kiện quan trọng để hình thành giọng điệu . Sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật Từ giọng điệu chủ âm là ngợi ca trong văn xuôi giai đoạn chiến tranh, văn xuôi sau năm 1975 có sự đa dạng, phong phú hơn trong giọng điệu trần thuật. Mỗi nhà văn bộc lộ cá tính sáng tạo của mình ở một giọng điệu riêng khó trộn lẫn. Họ đã chú ý hơn trong việc miêu tả tâm lí con người, vì thế nhân vật thường bộc lộ những nét tính cách, phẩm chất qua sự chiêm ngưỡng, suy nghĩ đấu tranh trong chính bản thân mình. Điều này được thể hiện qua nhiều truỵên ngắn của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Vũ Tú Nam, Xuân Thiều, Dương Thu Hương… Trong văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng từ sau năm 1975, người đọc nhận thấy sự đan xen của nhiều giọng điệu. Ngay ở một tác giả một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109 tác phẩm tính chất đa dạng cũng ngày càng bộc lộ rõ. Nguyễn Minh Châu là trường hợp tiêu biểu về sự đa dạng trong giọng điệu trần thuật. Có thể coi Bức tranh là truyện ngắn thể hiện những thay đổi sớm nhất và rõ nhất về giọng điệu trong các sáng tác sau chiến tranh của ông. ở truyện ngắn này, giọng điệu tác giả và giọng điệu của nhân vật nhiều lúc khó mà phân biệt. Sự hoà quyện giọng điệu ấy vang lên trong cuộc đấu tranh nội tâm của nhân vật qua đó ghi lại những diễn biến tâm trạng một cách chân thực. Cuộc đối thoại khi thì mang giọng điệu mỉa mai giễu cợt thói đạo đức giả của chính nhân vật A ha! Vì mục đích phục vụ số đông của người nghệ sĩ cho nên anh quên tôi đi hả…Có quyền lừa dối hả? Thôi, anh bước khỏi mắt tôi đi[11/127]; khi thì mang giọng tư biện Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là một anh thợ vẽ truyền thần…Anh chỉ là một cá nhân, với cái chuyện riêng của anh, anh hãy chịu khó để cho tôi quên đi, để phục vụ cho cái đích lớn lao hơn[11/127]; khi lại đanh thép kết tội mình là đồ dối trá. Những giọng này vừa đan xen, vừa luân chuyển theo những biến đổi tâm trạng của nhân vật. Nhưng nổi bật và xuyên suốt trong tác phẩm vẫn là một giọng điệu thâm trầm của một tâm hồn đang diễn ra những biến cố dữ dội. Tính chất đa giọng điệu ấy tiếp tục được sử dụng triệt để hơn trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. ở thiên truyện này luôn vang lên nhiều tiếng nói khác nhau, nhiều cuộc đối thoại đan cài, xen kẽ vào nhau. Tiêu biểu là những đối thoại nội tâm của Quỳ trong những giằng xé trăn trở trong cơn mộng du để tìm đến trong chân lí của cuộc sống. Đó còn là cuộc đối thoại giữa nhân vật người dẫn chuyện với Quỳ, giữa Quỳ và anh ấy, rồi giữa Quỳ với vong linh những người lính đã từng yêu thương cô. Chính tính chất đa giọng điệu đã tạo ra sức gợi mở và tính tranh luận để kiếm tìm chân lí. Đó cũng chính là một trong những biểu hiện của xu hướng dân chủ hoá trong văn xuôi của Nguyễn Minh Châu đầu những năm 80. Khi đi vào cuộc sống của những con người đời thường, tuỳ theo từng kiểu người mà giọng điệu của nhà văn biến đổi linh hoạt cho phù hợp. ở Sắm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 110 vai, miêu tả sự lố bịch kệch cỡm trong hành động của nhà văn T, Nguyễn Minh Châu chủ yếu sử dụng giọng điệu hài hước. ở Mẹ con chị Hằng, Đứa ăn cắp là giọng nghiêm nghị, xót xa khi nói đến những sự vô tâm của con người trong cuộc sống. Còn ở Bức tranh và Dấu vết nghề nghiệp lại là giọng điệu trầm tĩnh, day dứt đầy triết lí. Với nhân vật Khúng trong Khách ở quê ra, nhà văn sử dụng giọng điệu suồng sã, đời thường . Sự thay đổi từ một giọng sang đa giọng trong truyện ngắn sau 75 có căn nguyên từ những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người. Cuộc sống trong chiến tranh ồn ào náo động nhưng có cái đơn giản của nó còn cuộc sống trong hoà bình lại chất chứa nhiều sóng ngầm gió xoáy Nguyễn Khải bên trong. Đứng trước những vấn đề xã hội nhân sinh mới mẻ đòi hỏi nhà văn phải có những cách tiếp cận mới, những cách giải quyết mới khác với thời chiến. Trở về với đời thường để dẫn người đọc thâm nhập vào cái bên trong đầy bí ẩn, chứa đựng cái bản ngã của mỗi người trong những mặt đối lập, phức hợp trong tính cách của nó, các tác giả hầu hết đã thay đổi giọng điệu trần thuật và có bước tiến mới trong tổ chức giọng điệu trần thuật. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 111 PHẦN KẾT LUẬN 1. Nằm trong sự chuyển đổi nhiều mặt của xã hội sau khi chiến tranh kết thúc, nền văn học Việt Nam cũng có sự vận động, biến đổi để đáp ứng nhu cầu chung của con người thời đại. Truyện ngắn là thể loại đáp ứng nhanh và linh hoạt hơn các thể loại khác trong giai đoạn chuyển tiếp của nền văn học từ thời chiến sang thời bình. Sự vận động và phát triển của truyện ngắn Việt Nam trong giai đoạn 1975 - 1985 là một hiện tượng mang tính tất yếu. Một mặt, do những thay đổi trong đời sống xã hội với phức tạp trong cuộc sống đời thường và sự đa dạng trong tính cách con người là những nguyên nhân trực tiếp thôi thúc quá trình đổi mới của thể loại. Truyện ngắn đã bứt phá những quy phạm thể loại, những hạn hẹp trong phạm vi phản ánh hiện thực để đáp ứng kịp thời và toàn vẹn những vấn đề của thực tại sau chiến tranh. Mặt khác, từ sau năm 1975 nhất là từ giữa những năm 80 trở đi với chủ trương dân chủ hóa văn học và sự mở rộng giao lưu với văn học các nước trong khu vực và trên thế giới đã dẫn đến những biến đổi quan trọng, sâu sắc nền văn học Việt Nam, trong đó có truyện ngắn. Sự cách tân thể loại này bắt đầu từ quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người đến phương thức thể hiện, từ chức năng của văn học đến tư cách người nghệ sĩ, từ phương diện tư tưởng đến phương diện thi pháp. Tuy nhiên, những sự thay đổi đó mới chỉ là những dấu hiệu tiềm ẩn, chưa định hình rõ ràng, với những thể nghiệm, những bước dò tìm để chuẩn bị cho quá trình đổi mới sẽ diễn ra mạnh mẽ ở giai đoạn sau. Trong hướng đi mới này, nhiều truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn… như là khúc dạo đầu cho truyện ngắn nói riêng và cũng là cho cả một giai đoạn văn học mới. Tiếp sau họ xuất hiện một lớp nhà văn trẻ như Lê Minh Khuê, Phạm Thị Minh Thư, Hồ Anh Thái… Họ sẽ là lực lượng chính đưa văn xuôi Việt Nam đổi mới sau 1986 chính thức lên đường. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 112 Tất cả những dấu hiệu đổi mới trong các truyện ngắn mà luận văn khảo sát có thể xem như là những mũi khoan thử nghiệm của một hướng tìm tòi, đổi mới ban đầu của thể loại nằm trong quy luật vận động, phát triển không ngừng của nền văn học Việt Nam hiện đại trong sự giao lưu và tiếp xúc với văn học thế giới. Các sáng tác ấy chưa hẳn đã đạt đến chiều sâu của nhận thức cũng như sự kết tinh về nghệ thuật nhưng bước đầu có tác động khá mạnh mẽ đến tư duy sáng tạo của các nhà văn cũng như tâm lí tiếp nhận của bạn đọc. 2. Một trong những phương diện có nhiều dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng ở giai đoạn sau chiến tranh là phương diện đề tài. Đề tài chiến tranh tiếp tục là mảnh đất giàu tiềm năng cho các cây bút khai vỡ. Tuy nhiên khi đi vào đề tài này thấy sự trăn trở, tìm tòi những cách tiếp cận mới. Phần lớn các sáng tác về đề tài này chỉ lấy bối cảnh chiến tranh làm cái nền để bộc lộ những phẩm chất anh dũng, nhân văn của con người. Các tác giả đã cố gắng tạo ra sự hài hòa khi thể hiện sự khốc liệt của cuộc chiến tranh với tinh thần nhân bản của con người và tinh thần chiến đấu của dân tộc. Mặt khác, sự chú ý của các cây bút nghiêng về khai thác những hậu quả của chiến tranh, những sự lầm lạc phản bội, những cái giá phải trả cho chiến thắng. ở đó, con người cá nhân được thể hiện một cách sinh động, toàn vẹn, sâu sắc. Nhờ vậy, nhiều truyện ngắn giai đoạn này đã bộc lộ những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, góp phần làm cân bằng trở lại cách nhìn nhận con người trong văn xuôi thời kì chiến tranh. Cùng với đề tài chiến tranh là sự xuất hiện của đề tài thế sự, đời tư. Từ sau năm 1980 trở đi đây là đề tài giữ vai trò trung tâm của nền văn học. Truyện ngắn sau chiến tranh đã tạo được những hiệu quả cao khi đi vào một cảnh đời, một tâm trạng trong những tình huống tiêu biểu của cuộc sống thường nhật. Với ý thức nhạy bén và sự gắn bó với cuộc sống, các nhà văn đã xới lên những vấn đề của cuộc sống đương đại để vừa rung một hồi chuông cảnh tỉnh vừa khẳng định niềm tin vào con người. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 113 Trong giai đoạn chiến tranh, nền văn học gắn với cảm húng sử thi, với âm điệu ngợi ca và niềm lạc quan cách mạng. Sau khi chiến tranh kết thúc thấy rõ sự chuyển dịch từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự đời tư. Trong những truyện ngắn giai đoạn 1975-1985 không chỉ có một giọng là ngợi ca mà là sự đan cài của nhiều nguồn cảm hứng cảm hứng đạo đức, cảm hứng bi kịch, cảm hứng phê phán… Nhưng tất cả đều mang cảm hứng nhân văn về số phận con người cá nhân. 3. Nhìn chung, truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 ngày càng xa đần lối kể lể dài dòng với những biến cố dữ dội mà ngắn gọn hơn, cô đúc hơn trong phương thức biểu hiện. Vai trò của cốt truyện chặt chẽ gay cấn có xu hướng nhường chỗ cho những cốt truyện tâm lí. Truyện ngắn có sức khái quát cao hơn vì đi vào chiều sâu thế giới bên trong tâm hồn con người để bộc lộ quá trình tự nhận thức. Đó là biểu hiện cho sự nhận thức về con người đã đạt đến một tư duy mới, gần với bản chất con người hơn. Đó cũng là kết quả của sự phối hợp của nhiều điểm nhìn trần thuật. Điểm nhìn người dẫn truyện, điểm nhìn của các nhân vật thường đan cài vào nhau làm nổi bật những chân dung, tính cách, số phận nhân vật trong chiều sâu triết lí. Cũng chính vì thế kiểu nhân vật tự nhận thức, nhân vật tính cách, số phận được nhiều nhà văn chú ý lựa chọn. Truyện ngắn cũng đang mở ra những con đường giao tiếp cởi mở hơn với độc giả. Nhà văn không phải là người độc tôn chân lí phán truyền mà tăng cường yếu tố đối thoại với người đọc. Điều đó có thể nhận thấy qua những cách kết thúc mở, những sự phức hợp của giọng điệu. Mười năm truyện ngắn 1975- 1985 là thời gian chuẩn bị tích cực cho sự định hình những nét mới, góp phần quan trọng làm nên một dòng chảy liền mạch cho văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114 Tài liệu tham khảo 1. Tạ Duy Anh 2002, Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 2. Nguyễn Thị Vân Anh 1985, Hoa xương rồng Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 3. Vũ Tuấn Anh 1995, “Đổi mới văn học vì sự phát triển”, Tạp chí Văn học, 4, trang 14-19. 4. Vũ Tuấn Anh 2001, Văn học Việt Nam hiện đại- Nhận thức và thẩm định, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Lại Nguyên Ân 1984, Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới. Hà Nội. 6. Lại Nguyên Ân 1986, “Thử nhìn lại văn xuôi 10 năm qua”, Tạp chí Văn học, 1. 7. Nguyễn Thị Bình 1996, Những đổi mới văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 - Khảo sát trên nét lớn, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn. Đại học Sư phạm I, Hà Nội. 8. Bốn mươi lăm truyện ngắn 1975-1985 1985, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 9. Nguyễn Minh Châu 1983, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành Tập tuyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 10. Nguyễn Minh Châu 1985, Bến quê Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 11. Nguyễn Minh Châu 2006, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. 12. Có một đêm như thế 1981 Tập truyện ngắn được giải thưởng tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1981, Nxb Văn nghệ quân đội, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 115 13. Cơ sở lí luận văn học 1985, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 2. 14. Trần Cương 1986, “Về một vài hướng tiếp cận với đề tài chiến tranh”, Tạp chí Văn học, 3. 15. Phan Cự Đệ 1986, “Mấy vấn đề lí luận của văn học hiện nay”, Tạp chí văn học, 5. 16. Phan Cự Đệ Chủ biên 2005, Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 17. Phan Cự Đệ Chủ biên 2005, Truyện ngắn Việt Nam - Lịch sử - Thi pháp - Chân dung, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 18. Trần Thanh Địch 1985, Tìm hiểu truyện ngắn, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội. 19. Trung Trung Đỉnh 1986, Đêm nguyệt thực Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 20. Hà Minh Đức Chủ biên 2000, Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Tái bản lần thứ 6 21. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình 1995, Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi từ sau cách mạng tháng tám đến nay, Hà Nội. 22. Bùi Hiển 1981, Nằm vạ Tập truyện ngắn, Nxb văn học, Hà Nội. 23. Bùi Hiển 1985, Tâm tưởng Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 24. Dương Thu Hương 1981, Những bông bần li Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 25. Lê Thị Hường 1995, Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt nam giai đoạn 1975 -1995, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 116 26. Nguyễn Văn Kha 2006, Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt nam 1975- 2000, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 27. Nguyễn Khải1982, Gặp gỡ cuối năm, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 28. Phùng Ngọc Kiếm 2002, Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945- 1975, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 29. Nguyễn Kiên 1986, Đáy nước Tập truyện, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 30. Duy Khán 1985, Tuổi thơ im lặng Tập truyện, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 31. Ma Văn kháng 1986, Ngày đẹp trời Tập truyện,Nxb Lao động, Hà Nội. 32. Ma Văn Kháng1985, Mùa lá rụng trong vườn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 33. Lê Minh Khuê 1981, Đoạn kết Tập truyện, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 34. Lê Minh Khuê 1986, Một chiều xa thành phố Tập truyện, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 35. Tôn Phương Lan 2002, Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tái bản lần thứ nhất 36. Tôn Phương Lan 2005, Văn chương và cảm nhận, Nxb Khoa h?c xã h?i, Hà Nội. 37. Phong Lê 1994, Văn học và công cuộc đổi mới Tiểu luận và phê bình, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 38. Phong Lê 1983, “Văn học những năm 80”, Tạp chí Văn học, 3. 39. Nguyễn Văn Long 2003, Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 40. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn Đồng chủ biên 2006. Văn học Việt Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dậy. Nxb Giáo dục, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 117 41. Thái Bá Lợi 1982, Vùng chân hòn tàu Tập truyện, Nxb văn học, Hà Nội. 42. Mấy vấn đề văn hoá và phát triển ở Việt nam hiện nay, Bộ Văn hoá thông tin- Thể thao, Hà Nội. 43. Một thời đại văn học mới Tiểu luận 1987, Nxb Văn học, Hà Nội. 44. Mười bốn truyện ngắn Nguyễn Khải, Phạm Hoa, Nhật Tuấn 1982, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 45. Mười bảy truyện ngắn thành phố Hồ Chí Minh 1982, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 46. Năm mươi năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám 1996, Nxb Đại học quốc gia ,Hà Nội. 47. Bảo Ninh 1987, Trại bảy chú lùn Tập truyện, Nxb Hà Nội. 48. Vương Trí Nhàn 1980, Sổ tay truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 49. Trần Thị Mai Nhi 1994, Văn học hiện đại - Văn học Việt Nam - giao lưu gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội. 50. Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki 1998, Nxb Giáo dục, Hà Nội.Tái bản lần 1 51. Nguyên Ngọc, “Văn xuôi sau năm 1975. Thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển”, Tạp chí Văn học, 4. 52. Phạm Xuân Nguyên 1994, “Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay”, Tạp chí Văn học, 2, trang 26-31. 53. Huỳnh Như Phương 1991, “Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hóa nền văn học”, Tạp chí Văn học, 4, trang 14-17. 54. Nguyễn Phương Tân, Nguyễn Thị Hạnh tuyển chọn 2002, Truyện ngắn xuất sắc về chiến tranh, Nxb hội nhà văn, Hà Nội. 55. Bùi Việt Thắng 1999, Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 118 56. Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn - Những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 57. Nguyễn Quang Thân 1994, 15 truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội . 58. Thời gian Tập truyện ngắn được giải thưởng tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1983 - 1984 1985, Nxb Tổng cục chính trị, Hà Nội. 59. Thời gian và trang sách Phê bình tiểu luận 1987, Nxb Văn học, Hà Nội. 60. Xuân Thiều 1985, Gió từ miền cát tập truyện, Nxb tác phẩm mới, Hà Nội. 61. Tinh tuyển Văn học Việt Nam Giai đoạn 1945-2000 2004, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 8. 62. Bích Thu 1995, “Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau năm 1975 qua hệ thống môtip chủ đề”, Tạp chí Văn học, 4. 63. Bích Thu 1996, “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975”, Tạp chí Văn học, 9, trang 32-36. 64. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu - Tác phẩm và lời bình 2007, Nxb Văn học, Hà Nội. 65. Truyện ngắn Việt nam 1945-1985 1985, Nxb Văn học, Hà Nội. 66. Truyện ngắn hay Việt Nam thời kì đổi mới 2000, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 67. Truyện ngắn Việt nam thế kỷ XX 2002, Nxb Kim đồng, Hà Nội, 3. 68. Trang giấy trước đèn Phê bình - tiểu luận của Nguyễn Minh Châu 1994, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội. 69. Nguyễn Mạnh Tuấn 1985, Hành khúc ngày và đêm Tập truyện ngắn, Nxb Lao động, Hà Nội. 70. Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải thưởng Hội nhà văn 1951- 1997. Nxb Hội nhà văn. Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 119 71. Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam chọn lọc Thế kỷ 19-20 1996, Nxb Văn học, Hà nội. 72. Lê Ngọc Trà. “Vấn đề con người trong văn học” in trong Lí luận văn học, 1990, Nxb Trẻ Tp. Hồ Chí Minh. 73. Lê Ngọc Trà. “Vấn đề văn học phản ánh hiện thực” in trong Lí luận văn học, Nxb Trẻ Tp. Hồ Chí Minh. 74. Võ Văn Trực 1993, Chuyện làng ngày ấy, Nxb Lao động, Hà Nội. 75. Từ điển thuật ngữ văn học 1992, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 76. Trần Đình Sử 1986, “Mấy ghi nhận về sự đổi mới tư duy và hình tượng con người trong văn học ta thập kỷ qua”, Tạp chí Văn học, 6. 77. Trần Đình Sử 1991, “Khái niệm quan niệm nghệ thuật trong nghiên cứu văn học Xô Viết”, Tạp chí Văn học, 1. 78. Trần Đình Sử 1999, Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 79. Trần Đình Sử. “Khái niệm quan niệm nghệ thuật trong văn học Xô Viết” 1991, Tạp chí Văn học , 1. 80. Văn học Việt Nam 1975-1985-Tác phẩm và dư luận 1997, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 81. Việt Nam nửa thế kỷ văn học Kỷ yếu hội thảo 26/9/1995 1997, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 82. Văn học trong giai đoạn cách mạng mới 1984, Nxb Tác phẩm mới - Hội nhà văn, Hà Nội. Các file đính kèm theo tài liệu này
Ngày đăng 03/06/2016, 0949 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Nguyễn Thị Phương Thảo TRUYỆN NGĂN VIỆT NAM SAU NĂM 1975 VIẾT VỀ CHIẾN TRANH Chuyên ngành Lí luận văn học Mã số 62 22 01 20 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Hà Nội - 2016 Công trình hoàn thành tại Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội Người hướng dẫn khoa học Trần Khánh Thành Phản biện 1 Phản biện 2 Phản biện 3 Luận án bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp … họp Vào hồi ngày tháng năm 20 Có thể tìm hiểu luận án tại - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN [1] Nguyễn Thị Phương Thảo 2013, “Diện mạo truyện ngắn viết đề tài chiến tranh Nguyễn Minh Châu hai thời kỳ sáng tác”, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật Quân đội, số + 4, tr 52 - 53 72 [2] Nguyễn Thị Phương Thảo 2014, “Truyện ngắn chiến tranh qua thi Văn nghệ Quân đội đầu kỉ XXI”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 810 81, tr 162 – 167 [3] Nguyễn Thị Phương Thảo 2016, “Cảm hứng nhân truyện ngắn Việt Nam viết chiến tranh sau 1975”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 839, tr 91 - 96 [4] Nguyễn Thị Phương Thảo 2016, “Yếu tố giấc mơ kỳ ảo truyện ngắn Việt Nam đương đại viết chiến tranh”, Tạp chí Lí luận Phê bình Văn học, nghệ thuật, số 44, tr 60 – 64 [5] Nguyễn Thị Phương Thảo 2016, “Nhân vật người lính truyện ngắn Việt Nam đương đại”, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 382, tr 82 – 85 MỞ ĐẦU Lí chọn đề tài Hiện nay, công trình nghiên cứu đề tài truyện ngắn chiến tranh chưa nhiều Trong khuôn khổ viết ngắn mục nhỏ công trình, vấn đề đặt rải rác,diện khảo sát thường hẹp số lượng tác phẩm Nghiên cứu truyện ngắn chiến tranh từ sau 1975 số góc độ nội dung nghệ thuật, hi vọng đem lại nhìn tương đối toàn diện mảng truyện ngắn với nhiều giá trị đặc sắc tiềm ẩn Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích Trên sở khảo sát nghiên cứu truyện ngắn sau 1975 viết chiến tranhtrong so sánh đồng đại với truyện ngắn nói chung, với tiểu thuyết chiến tranh…và so sánh lịch đại truyện ngắn chiến tranh giai đoạn trước 1975, luận án muốn tìm đặc điểm, yếu tố kế thừa cách tân truyện ngắn viết đề tài chiến tranh Nhiệm vụ Qua việc tổng hợp tư liệu, luận án làm sáng rõ vấn đề lí luận thay đổi tư nghệ thuật, số yếu tố thi pháp đặc trưng thể loại truyện ngắn phân tích cụ thể sáng tác chiến tranh Đối tượng phạm vi nghiên cứu Đối tượng Một số phương diện quan trọng nội dung, nghệ thuật, đặc điểm truyện ngắn viết chiến tranh nhìn từ thời bình Sự thay đổi cách nhìn thực, giới nhân vật đa chiều, đặc sắc phương thức biểu truyện ngắn chiến tranh đương đại Phạm vi Luận án nghiên cứu tác phẩm tiêu biểu tuyển tập truyện ngắn hay chiến tranh, truyện ngắn hay đoạt giải Tạp chí Văn nghệ quân đội tuyển chọn từ 1975 đến năm 2016 Bên cạnh truyện ngắn chiến tranh tác giả tiêu biểu nhưNguyễn Minh Châu,Bảo Ninh, Sương Nguyệt Minh, Trung Trung Đỉnh, Chu Lai, Võ Thị Hảo, Trần Thanh Hà, Vũ Thị Hồng Đồng thời, luận án đề cập đến truyện ngắn gần chiến tranh phạm vi mà tác giả cập nhật Phương pháp nghiên cứu Trong trình thực hiện, luận án sử dụng số phương pháp nghiên cứu sau phương pháp lịch sử- xã hội, phương pháp so sánh, phương pháp tiếp cận thi pháp học, phương pháp loại hình, phương pháp nghiên cứu liên ngành Đóng góp luận án Qua việc tìm hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 chiến tranh, luận án bổ sung cách nhìn truyện ngắn đương đại Trên sở lý luận thực tiễn khảo sát tác phẩm, luận án đánh giá tác động thay đổi bối cảnh thực tư tưởng, quan niệm nghệ thuật đến truyện ngắn chiến tranh Luận án nét đặc trưng, kế thừa cách tân số phương diện nghệ thuật truyện ngắn sau 1975 viết chiến tranh cốt truyện, tình huống, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ giọng điệu Cấu trúc luận án Ngoài phần mở đầu kết luận, luận án tổ chức thành bốn chương sau Chương Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương Hiện thực chiến tranh với hướng tiếp cận Chương Các loại hình nhân vật chủ yếu Chương Những phương thức nghệ thuật đặc sắc CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Đặc trưng thể loại truyện ngắn Khái niệm Một số đặc trưng truyện ngắn đại Phương thức chiếm lĩnh thực truyện ngắn hướng đến toàn đầy đặn toàn vẹn tiểu thuyết mà tập trung đặc tả tượng, nét chất người, khoảnh khắc ngắn ngủi đời sống Truyện ngắn có đặc trưng riêng dung lượng, kết cấu, cốt truyện, tình huống, chi tiết Văn học chiến tranh- từ góc nhìn Từ góc nhìn số tác giả nước nhìn phía văn học Mỹ Với đề tài mang tính nhân loại, văn học chiến tranh nhận quan tâm nhà nghiên cứu nước giới thiệu Việt Nam Qua thấy nhiều vấn đề, quan điểm tương đồng có ý nghĩa học kinh nghiệm Điểm bật khẳng định vị trí, sức hấp dẫn đề tài chiến tranh đặt vấn đề phải viết để nói lên tầm vóc kháng chiến vĩ đại dân tộc, tâm người sau chiến tranh Một số viết khác đề cập đến sáng tác tác giả Mỹ chiến tranh Việt Nam cho từ thập kỷ 1970 đến chiến tranh trở thành đề tài lôi nhiều người cầm bút Mỹ nhiều thể loại Từ ý kiến phê bình nước Dựa nhiều khuynh hướng lí thuyết với tiêu chuẩn giá trị, đánh giá khác nhau, hướng nghiên cứu phổ biến đặt truyện ngắn đề tài chiến tranh văn xuôi chiến tranh Có thể thấy mảng văn học viết đề tài chiến tranh nghiên cứu phê bình nhiều bình diện, tập trung vào vị trí đề tài, lực lượng viết, thay đổi cách tiếp cận đề tài cho phù hợp với sống đương đại nhìn dân chủ sau chiến tranh Tình hình nghiên cứu truyện ngắn sau năm 1975 viết chiến tranh Những nghiên cứu truyện ngắn sau 1975 nói chung Bên cạnh viết khái quát, số tác giả sâu vào vấn đề cụ thể cảm hứng nữ quyền, truyện ngắn lịch sử, văn xuôi mạng…Những viết thường xuất phát từ vài phương diện để cắt nghĩa, giải mã độc đáo sáng tác tác giả hay tác phẩm, tập truyện số tác giả chọn cách tiếp cận truyện ngắn đương đại từ áp dụng lí thuyết phê bình phương tây Các viết chủ yếu bàn số khía cạnh truyện ngắn vận động thể loại Những luận án nghiên cứu truyện ngắn thường chọn số vấn đề để làm rõ, gợi mở cho công trình nghiên cứu khác Những đổi truyện ngắn từ sauu 1975 chiến tranh Một số nhà nghiên cứu đổi tư nghệ thuật biểu qua đề tài, xây dựng nhân vật Do khuôn khổ viết nên tác giả thường tập trung giải cách thấu đáo số khía cạnh đổi truyện ngắn chiến tranh Đó vấn đề để ngỏ Bên cạnh phê bình đề cập trực tiếp đến truyện ngắn chiến tranh, có số nhà phê bình bàn tác phẩm, nhà văn cụ thể viết đề tài chiến tranh như Nguyễn Minh Châu, Bảo Ninh, Từ Nguyên Tĩnh, Xuân Thiều Cách nhìn đem đến quan sát nhìn cụ thể tác giả, tác phẩm xuất văn đàn, nhìn khái quát truyện ngắn chiến tranh Đó gợi ý cho nghiên cứu đề tài Ngoài ra, bàn văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng đề tài chiến tranh xuất rải rác số báo, tạp chí, luận văn khác Hiện tại, chưa có công trình nghiên cứu cách hệ thống, toàn diện truyện ngắn từ sau 1975 đến chiến tranh Tiểu kết Đã có nhiều công trình, viết bốn mươi năm qua bàn lí luận truyện ngắn, văn xuôi, truyện ngắn chiến tranh xu đổi chung văn học Các viết chủ yếu bàn đến vài khía cạnh điểm qua vài nét đặc điểm truyện ngắn sau 1975 chiến vấn đề để ngỏ, gợi mở cho lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 viết chiến tranh CHƯƠNG 2 HIỆN THỰC CHIẾN TRANH VỚI NHỮNG HƯỚNG TIẾP CẬN MỚI Sự đổi quan niệm nghệ thuật thực người Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật cảm hứng sáng tác Sau 1975, với đổi tư duy, quan niệm thực thay đổi Hiện thực chiến tranh hậu nhìn nhận cách toàn diện sâu sắc Quan niệm nghệ thuật người ngày toàn diện, dần chuyển từ người công dân, trị sang người cá thể khai thác nhiều bình hứng lãng mạn dần thay cảm hứng nhân bản, nhân văn Chiều sâu thể tâm hồn người khai thác với trí tuệ, tư tưởng, tình cảm, năng, ý thức vô thức, tâm linh Điểm bật truyện ngắn chiến tranh thời gian khắc hoạ hình tượng người lính từ hai chiến tuyến Từ khuynh hướng sử thi chuyển sang khuynh hướng sự, đời tư Giai đoạn kháng chiến 1945-1975 Việt Nam thời điểm đặc biệt sản sinh nuôi dưỡng văn học sử thi Thành công khuynh hướng sáng tác kết tinh thành truyện ngắn làm bật chân dung anh hùng, người ưu tú cộng đồng với lý tưởng chung Sau năm 1975, nhà văn không hướng đến vấn đề lịch sử trị mà khai phá mảng thực đặt sống thời bình Văn học đương đại Việt Nam chiến tranh thiên khai phá mặt khuất lấp, vấn đề đời tư - sự, hướng đến sống đa trị qua thể cảm quan nhà văn Khám phá thực, người tính đa dạng, đa diện Biên độ thực chiến tranh mở rộng 10 CHƯƠNG 3 CÁC LOẠI HÌNH NHÂN VẬT CHỦ YẾU Loại hình học loại hình nhân vật văn học Loại hình học Phương pháp tiếp cận vấn đề văn học theo loại hình giúp khu biệt cách tương đối tượng mối quan hệ với hệ thống, tổng thể, từ đưa nhận định theo nhóm có chung đặc điểm Với vấn đề nhân vật truyện ngắn chiến tranh, chọn hướng tiếp cận cách thức để đưa kiến giải kiểu nhân vật truyện ngắn đương đại chiến tranh Cách phân loại nhân vật theo loại hình Tuỳ theo tiêu chí phân loại khác mà tìm thấy loại nhân vật có tương đồng mặt Trong truyện ngắn sau 1975 chiến tranh, giới nhân vật phong phú đa dạng Chúng chọn cách phân loại nhân vật dựa tiêu chí vai trò nhân vật tác phẩm kết hợp với tiêu chí giới tính, lứa tuổi, mức độ ảnh hưởng chiến tranh họ Từ luận án tập trung khảo sát số kiểu loại nhân vật chủ yếu khắc hoạ đậm nét truyện ngắn chiến tranh đương đại Các loại hình nhân vật tiêu biểu truyện ngắn sau 1975 viết chiến tranh Thế giới nhân vật truyện ngắn chiến tranh Trong truyện ngắn sau 1975 chiến tranh, viết chiến tranh kết thúc, có nhiều nhân vật lứa tuổi, giới tính người sống hoà bình, thường ngày Họ không tham gia chiến tranh mà xuất truyện với tư cách người kể chuyện, nhân vật phụ làm bối cảnh cho tuyến truyện 13 Trong khuôn khổ đề tài, chọn sâu khảo sát hai kiểu nhân vật tiểu biểu người lính người phụ nữ Họ thường nhân vật chính, nhân vật trung tâm tác phẩm Nhân vật người lính Nhân vật đa diện Trong truyện ngắn chiến tranh đương đại, người lính khắc hoạ đa chiều với cá tính riêng, số phận đời tư, nhiều gương mặt khác bên người Đó Trí Hai người trở lại trung đoàn – Thái Bá Lợi , vị tướng Ai biết mộ liệt sĩ đâu? - Văn Chinh, Lâm Truyền thuyết Quán Tiên - Xuân Thiều Không sản phẩm tinh thần lý tưởng hoá cao độ, họ lên với sai lầm, thiên kiến cá nhân, khoảnh khắc hèn nhát, lấn át lí trí Việc nhà văn “đặc tả” người nhiều chiều kích cách khách quan dẫn đến xuất nhân vật “lưỡng diện”, “đa trị” văn học nói chung truyện ngắn chiến tranh nói riêng Nhân vật tự ý thức - Ý thức hoàn cảnh Người lính xây dựng tâm tự ý thức cảnh ngộ để sống vượt lên nghịch cảnh sau chiến tranh Dù gặp mát, thiệt thòi hình tượng người lính đem đến cho người đọc khâm phục, cảm động họ biết vượt qua bi kịch cá nhân để khẳng định phẩm chất- lí tưởng sống Đó Lực Cỏ lau- Nguyễn Minh Châu, “anh” Đêm nguyệt thựcTrung Trung Đỉnh, Thao Miền cỏ hoang- Trần Thanh Hà Kiểu nhân vật chiếm số lượng lớn, sản phẩm tất yếu đổi tư nghệ thuật - Ý thức sai lầm để tự thú, sám hối 14 Tự ý thức trạng thái tinh thần để người chiêm nghiệm, suy ngẫm lại hành động Phần lớn họ người lính bên chiến tuyến chúng trình bày phần sau Bên cạnh đó, có nhân vật tự thú người lính cách mạng “người khách” Hồn cát - Nguyễn Hiệp, Lực Cỏ lau hoạ sĩ Bức tranh Nguyễn Minh Châu Xây dựng nhân vật thể nhạy cảm nhà văn trạng thái tâm lí đầy ám ảnh người sau chiến tranh, dù ai, đứng vị trí Nhân vật cô đơn Bên cạnh đối lập với kiểu nhân vật vượt lên nghịch cảnh nhân vật không dung hoà với sống sau chiến tranh Mang theo điều từ chiến tranh, nhiều người rơi vào trạng thái cô đơn, lạc lõng cộng đồngvà thời Đó tướng Thuấn Tướng hưu- Nguyễn Huy Thiệp, Châu Bóng ma đói quê hương- Vũ Bão, Mộc Trại “Bảy lùn”- Bảo Ninh Môtip người lính cô đơn trở thành mẫu hình phổ biến văn học sau 1975, làm phong phú tranh chân dung người lính Họ phản chiếu đời sống sau chiến tranh Nhân vật tha hoá Cùng với đổi tư nhu cầu “nói thật”, hình tượng người bị tha hóa xuất nhiều văn học nói chung truyện ngắn chiến tranh nói riêng Bởi chiến tranh không nơi khẳng định anh hùng mà nơi phân biệt kẻ hèn nhát, phản bội, nhỏ nhen Sự biến chất, tha hoá vấn đề khai thác tiểu thuyết truyện ngắn vấn nạn cần phê phán cảnh giác Đó Sức Anh Sức- Khuất Quang Thụy, Quang Cơn giông-Nguyễn Minh Châu, Lê Mãnh Nanh sấu- Sương Nguyệt Minh 15 Người anh hùng, người lính góc nhìn nhà văn trở nên chân thực, sinh động hơn, gần với đặc tính cố hữu người, chiều thánh thiện Nhân vật người lính bên chiến tuyến Cùng với thay đổi quan niệm đề tài chiến tranh, người, văn học có nhìn khách quan dành cho người phía “đối phương” Họ công cụ kẻ xâm lược chiến, bị hủy diệt lúc toan tính nhà cầm quyền, nhiều người bị xô đẩy vào chiến rơi vào bi kịch Đó Phúc Thời tiết ký ức- Bảo Ninh, John Smith Chú lùn thứ bảy- Lưu Sơn Minh, Huỳnh Phấn Đất ấm- Đỗ Văn Nhâm Nhân vật người lính “bên kia” phác hoạ với vẻ đẹp nhân Dù phải làm nhiệm vụ hàng ngũ địch họ có cảm xúc, tình cảm, lòng trắc ẩn người bình thường Đó Benla Cây số 42- Dũng Hà, Xơn Ông Ba Rạch Đùng- Dương Đức Khánh Hệ thống nhân vật phản chiếu tư “nhận thức lại lịch sử” cách khách quan, bao dung, nhân văn tiếp cận đề tài chiến tranh Vì vậy, họ “điền vào” vào khoảng trống mà giai đoạn trước truyện ngắn để ngỏ Nhân vật người phụ nữ Nhân vật phụ nữ thuỷ chung chờ đợi Môtip nhân vật phụ nữ thuỷ chung chờ đợi xuất nhiều truyện ngắn chiến tranh từ sau 1975 Điểm chung họ chờ đợi thời gian dài, chí nửa đời người, họ giữ mối chung tình với người xa dù chưa lời thề nguyền hẹn ước Đó Ân Mật Hai người đàn bà xóm trại Nguyễn Quang Thiều, cô gái làng chiến khu Giếng – Lê Tuấn Hiển, Hai Mật Trên mái nhà người phụ nữ - Dạ Ngân Họ tạo thành hệ thống nhân vật “ vọng phu” nhiều dáng vẻ, điển hình 16 cho nhân cách, phẩm chất, cách ứng phó với sống sau chiến tranh không phụ nữ Việt Nam Nhân vật phụ nữ với bi kịch chiến tranh Truyện ngắn sau 1975 chiến tranh tiếp cận người số phận cá nhân, người phụ nữ mang bi kịch con, trở thành người đàn bà goá bụa chịu thương tật di chứng chiến tranh,không làm mẹ Đó người bà Nắng chiều- Thụy Anh, bà cụ Lăng Bến trần gian- Lưu Sơn Minh , mẹ Chuyện xưa kết đi, chưa?- Bảo Ninh Họ tô đậm đức tính hi sinh, tình cảm sâu nặng, nghị lực kiên cường yếu đuối giới nữ Kiểu nhân vật gắn với cảm hứng bi kịch, tinh thần dân chủ, nhìn thẳng vào thật, truyện ngắn tiếp cận người góc độ mát, bất hạnh sống tác động chiến tranh Tuổi trẻ, nhan sắc, sức sống hao mòn thời gian chiến tranh với nếp sống tình cảm, chi phối dư luận cộng đồng khiến họ gặp nhiều trắc trở tình duyên nhiều người chí sống đơn độc phần đời lại Con người mang theo khuyết thiếu, vết thương tâm hồn, tình cảm vấn đề lớn sau chiến tranh Nhân vật phụ nữ tha hoá Trong cách tiếp cận thực người đa diện, người phụ nữ khắc hoạ bị chiến tranh kéo dài đẩy vào tình cảnh éo le, trở thành người bội bạc, chung chạ với nhiều người Kiểu nhân vật văn học giai đoạn trước Tuy nhiên, nhìn truyện ngắn thời kỳ với họ thường bao dung họ nạn nhân chiến tranh, nhiều hoàn cảnh, họ có khát khao đỗi thường tình người Đó nhân vật vợ Quang Rửa tay gác kiếm- Bảo Ninh, Diệu Nương Gió dại- Bảo Ninh, Diễm Thuý Đỉnh khói- Nguyễn Thị Kim Hòa, Thoải Thím Thoải- Hạnh Lê 17 Soi chiếu qua thân phận người phụ nữ, truyện ngắn sau 1975 hướng đến tận góc khuất thầm kín, khát vọng năng, vấp ngã đời thường Bên cạnh đó, họ toát lên đặc trưng nếp nghĩ, phẩm chất người phụ nữ Việt Nam truyền thống Tiểu kết Nhân vật truyện ngắn chiến tranh đương đại thêm vào chân dung, kiểu loại gắn với nhìn từ hoà bình Nhân vật người lính thời kỳ tập trung thể với tinh thần khách quan, nhân Viết đa dạng tính cách, chấn thương, bi kịch kết lối tư nghệ thuật Điều nghĩa phủ nhận kiểu nhân vật người lính anh hùng giai đoạn trước mà bổ sung, làm đầy đủ loại nhân vật Bên cạnh đó, nhân vật phụ nữ đối tượng đặc biệt quan tâm văn học nói chung truyện ngắn chiến tranh nói riêng Nhìn từ hoà bình, chân dung họ lên với tổn thương đầy khắc khoải nhược điểm mang tính bảo thủ người phụ nữ định kiến xã hội Việt Nam Họ đáng trân trọng, cảm thông chiến tranh qua để lại người phụ nữ với bi kịch lớn gia đình trọn vẹn CHƯƠNG 4 NHỮNG PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT 18 ĐẶC SẮC Tổ chức cốt truyện Khái niệm cốt truyện vai trò cốt truyện truyện ngắn Một số loại hình cốt truyện tiêu biểu Cốt truyện kiện - hành động Loại cốt truyện trọng yếu tố “có chuyện”,biến cố, kiện, hành động nhân vật phát triển tạo nên vận động cốt truyện Tuy nhiên, truyện ngắn chiến tranh đương đại, dù truyện triển khai kiện, hành động chủ yếu đan xen chi tiết, tình tiết lạ, bất ngờ, biến cố liên tục tạo độ căng cho truyện, trình tự kiện bị đảo lộn không thiết trình bày theo trật tự trước sau truyện truyền thống Đồng thời, nhà văn sử dụng yếu tố kỳ ảo, giấc mơ, tâm linh đan xen, kiểu truyện “giả thể loại” để biểu cảm nhận người đại đời sống sau chiến tranh Nhiều truyện có kiểu cốt truyện như Kẻ sát nhân lương thiệnLại Văn Long Còn, Mười ba bến nước Sương Nguyệt Minh, Hai mươi năm sau Hồ Phương Cốt truyện tâm lý Sau năm 1975, kiểu cốt truyện chiếm tỉ lệ lớn truyện ngắn, hướng đến giới thực khó định hình nắm bắt tâm hồn người Sự kiện nhắc đến truyện không nhiều từ “mắc treo” ấy, tác giả làm hành trình xâm nhập, giãi bày trạng cảm xúc diễn tâm hồn nhân vật trước hoàn cảnh, khám phá người chiều sâu vô thức tâm linh sau chiến tranh Đây kiểu cốt truyện Bức chân dung người đàn bà lạ Chu Lai, Dòng sông trinh nữ 19 Sương Nguyệt Minh, Mỗi tháng có rằm Lê Hoài Lương Tiếp thu kiểu cốt truyện trữ tình, nhà văn đương đại vận dụng cách nhuần nhuyễn tinh tế nhìn hướng số phận cá nhân người sau chiến tranh Cốt truyện dòng ý thức bước phát triển cốt truyện tâm lý Trong truyện ngắn chiến tranh đương đại, loại cốt truyện chưa đạt đến mức “điển hình” xuất số tác giả sử dụng phương tiện tìm kiếm nhận thức mẻ, sâu sắc giới bên người Có thể gặp kiểu cốt truyện Sám hối Phùng Văn Khai, Bến đàn bà Nguyễn Mạnh Hùng, Hoài vọng Văn Xương Xu hướng tự hoá cốt truyện Trong văn xuôi đương đại, người ta nói đến “lỏng lẻo”, “thu nhỏ” cốt truyện, nhà văn không tuân theo nguyên tắc truyền thống để xây dựng cốt truyện Một loại cốt truyện xuất không nhiều thể nghiệm mẻ nhà văn viết chiến tranh, cốt truyện mang yếu tố hậu đại Chú lùn thứ bảy, Bến trần gian, Âm kí ức Quan niệm văn học đương đại hướng đến “hiện thực không hoàn kết”, biết trước Vì vậy, truyện ngắn chiến tranh có xu hướng chuyển đổi từ cách kết thúc đóng sang kết thúc mở hậu, tạo bất ngờ, để lại nhiều dư âm, gợi mở Việc tổ chức truyện ngắn với cốt truyện, đoạn kết cách sáng tạo, độc đáo đem lại nhiều cách cảm nhận đề tài chiến tranh, phù hợp với cảm thức đời sống đại Nghệ thuật tạo dựng tình truyện Vai trò tình truyện ngắn Một số tình tiêu biểu Tình bi kịch 20 Kiểu tình bao hàm xung đột đời sống mang tính kịch cao, va chạm nhân vật trở nên gay gắt bị dồn nén không gian, thời gian hành động theo quy tắc kịch Tình bi kịch cho thấy bất lực người trước hoàn cảnh, khốc liệt chiến tranh chi phối, ảnh hưởng dai dẳng đến đời người góp phần thể nhìn mẻ nhà văn chiến tranh lịch sử sang trang Dạng tình thường gặp cốt truyện hành động, kiện- tâm lý Cỏ lau Nguyễn Minh Châu, Ba người sân ga Hữu Phương, Tiếng chuông trôi sông Vũ Hồng Tình tâm trạng Đó kiện đặc biệt đời sống mà nhân vật rơi vào tình làm nảy sinh biến động giới tình cảm Dạng thức tình sử dụng với mật độ cao truyện ngắn chiến tranh đương đại nhìn trước đề tài không thiên tính kiện, thời sự, cổ vũ kháng chiến mà dõi theo diễn biến phức tạp số phận người Nhà văn thường từ kiện khơi nguồn cho mạch tâm trạng, điều ẩn sâu tiềm thức người lên rõ nét Mỗi tháng có rằm Lê Hoài Lương, Thảm cỏ trời Ngô Thị Kim Cúc, Chị dâu Hoàng Tuấn chứa đựng tình Tình tâm lý truyện nhiều khó nhận biết lại gây hiệu ứng cảm xúc mạnh với độc giả Vì tạo nên truyện ngắn giàu chất thơ, giới tâm hồn, tâm linh bí ẩn người bộc lộ Tình tự ý thức Thông thường, kiểu tình cốt truyện tâm lý, kiện- tâm lý cốt truyện luận đề Tình tạo dựng với xung đột gay gắt đặt nhân vật vào buộc phải suy ngẫm, 21 tự nhìn nhận lại, điều chỉnh quan niệm sống, hành vi đấu tranh nhận thức để vươn đến hoàn thiện Có thể thấy tình nhiều truyện Vở nhạc kịch dâng mẹ Trầm Hương, Tiếng vạc sành Phạm Trung Khâu, Truyện khó viết Nguyễn Đông Thức Sự phân loại có tính chất tương đối viêc nhận diện dựa vào trội yếu tố để xác định tác phẩm truyện ngắn có tình truyện Đổi phương thức trần thuật Người kể chuyện thứ ba với điểm nhìn khách quan Đặc điểm phương thức người kể chuyện toàn tri diễn biến câu chuyện số phận nhân vật Trong truyện ngắn Việt Nam đương đại đề tài chiến tranh, hình thức kể chuyện từ thứ ba sử dụng phổ biến Nét truyện ngắn chiến tranh đương đại xu hướng hạn chế “quyền năng” người kể chuyện, sử dụng điểm nhìn bên ngoài, cách kể khách quan, lạnh lùng, lãnh đạm Trận gió màu xanh rêu Võ Thị Hảo, Bến trần gian Lưu Sơn, Loay xoay thuyền thúng Lê Nguyên Ngữ Người kể truyện thứ với điểm nhìn bên Người kể chuyện thứ gắn với điểm nhìn hướng nội, điểm nhìn bên nhằm bộc lộ giới nội tâm đầy bề bộn, trắc ẩn sau chiến tranh Theo lý thuyết G Genette, khảo sát truyện ngắn chiến tranh đương đại với dạng thức trần thuật từ thứ với điểm nhìn bên trongcó thể chia thành hai loại người kể chuyện kể tất chuyện nhiều người kể chuyện kể lại câu chuyện Kiểu trần thuật chiếm tỉ lệ lớn, thấy nhiều truyện ngắn như Chiều vô danh Hoàng Dân, 22 Người vãi linh hồn Vũ Bão, Anh Sức Khuất Quang Thụy, Hồn cát Nguyễn Hiệp Bên cạnh hai kiểu trần thuật trên, truyện ngắn chiến tranh đương đại có xu hướng trần thuật phối hợp kể, di động điểm nhìn Từ góp phần làm đa dạng phương thức trần thuật, hạn chế tính chủ quan, đơn điệu lối kể truyền thống Ngôn ngữ giọng điệu Ngôn ngữ Ngôn ngữ giàu chất thực, đời thường, phương ngữ Việc sử dụng ngôn ngữ giàu tính thực, giản dị cho phù hợp với hướng khai tác sống góc nhìn đời tư, số phận cá nhân mối quan hệ phức tạp sau chiến tranh Trong xu hướng kéo ngôn ngữ gần với thực đời sống, nhiều truyện ngắn chiến tranh đương đại sử dụng phương ngữ cách thức chuyển tải trọn vẹn câu chuyện số phận người gắn với vùng miền họ sinh thực, đời thườngcòn thể ngôn ngữ mang thở sống đương đại Ngôn ngữ đậm chất triết lý, trữ tình Sau chiến tranh, truyện ngắn phát vấn đề thực chiều sâu triết học nhu cầu chiêm nghiệm trước sống dẫn đến giảm ngôn ngữ kể, tả, tăng ngôn ngữ bình luận, phân tích Vì vậy, truyện ngắn tăng cường sử dụng từ ngữ mang sắc thái triết lí, suy tư Cùng với đó, ngôn ngữ trữ tình trải nghiệm, trầm lắng viết sống sau chiến tranh đầy điều phức tạp, bộn bề Ngôn ngữ mang tính đối thoại 23 Tinh thần đối thoại trước vấn đề chiến tranh hậu chiến cụ thể hoá qua ngôn ngữ Trong ngôn ngữ truyện ngắn chiến tranh không đối thoại nhân vật mà tranh biện quan điểm, tư tưởng phát ngôn họ Điều thấy truyện ngắn giai đoạn trước Ngôn ngữ truyện ngắn chiến tranh đương đại bồi đắp, tinh lọc để đem đến cho độc giả đương đại thông điệp sâu sắc kháng chiến trường kỳ dân tộc kỷ XX Giọng điệu Trong văn học trước năm 1975, tư sử thi cảm hứng lãng mạn tạo nên giọng điệu trang trọng, ngợi ca, châm biếm, nghiên cứu trang nghiêm Sau 1975, đặc biệt từ thời kì Đổi mới, giọng điệu tác phẩm biến đổi đa âm, đa thanh, phù hợp với trạng thái thực Đây hệ thay đổi quan niệm sáng tác, nghệ thuật trần thuật xây dựng nhân vật Tiểu kết Trong truyện ngắn Việt Nam đương đại nói chung,sự cách tân nghệthuật sở bảo lưu “mã di truyền” thể loại Yếu tố thi pháp truyền thống thể loại kế thừa cách tân cho phù hợp với môi trường văn hoá tầm đón đợi độc giả đương đại Truyện ngắn thể loại khác có vận động, đổi sâu sắc mặt nội dung, kiếm tìm thể nghiệm hình thức biểu đạt mẻ Điều dần kiến tạo sắc diện cho truyện ngắn đương đại 24 KẾT LUẬN Từ sau 1975 đến nay, truyện ngắn chiến tranh mạch chảy dòng chung văn học dân kế thừa mang tính sáng tạocủa truyện ngắn đề tài cho thấysự tác động mạnh mẽ thực đời sống xã hội, sách mở cửa hội nhập với văn chương Cùng với tiểu thuyết, truyện ngắn chiến tranh nỗ lực khai mở hướng tiếp cận với đề tài “muôn thuở ” thay đổi tư nghệ thuật cụ thể hoá truyện ngắn có nhìn khách quan đa chiều thực người, chi phối nội dung hình thức nghệ thuật truyện Sự mở rộng đường biên thực chiến tranh tinh thần nhân nhân vănđưa tác phẩm đến gần với văn chương giới đề tài cạnh đó, sử dụng yếu tố kỳ ảo, giấc mơ để dẫn dắt độc giả khám phá giới tâm linh, tiềm thức, vô thức người chịu tác động chiến tranh đem lại màu sắc mới, hấp dẫn độc giả đương đại Có thể nói, truyện ngắn phản chiếu lăng kính tư tưởng bổ sung thêm cách nhìn, cách viết hệ trưởng thành sau chiến tranh Ứng dụng cách tiếp cận theo loại hình, giới nhân vật truyện ngắn chiến tranh đương đại chia thành hai loại người lính người phụ nữ Trong đó, phân chia thành tiểu loại nhỏ để từ có lý giải, cắt nghĩa diện kiểu nhân vật nhân vật sáng tạo với tinh thần khách quan, nhân văn, nhiều loại có mẫu số chung với nhân vật văn học đương đại nói chung Tuy vậy, loại hình chứa đựng ý nghĩa, đặc trưng riêng họ người sau chiến tranh Vẫn hai loại nhân vật phổ biến văn học chiến tranh sau 1975 xây dựng với quan niệm nghệ thuật mẻ vật người lính không đơn phiến, dễ đoán biết 25 truyện ngắn trước 1975 mà xuất với trạng thái đa trị, lưỡng diện Họ khắc hoạ không với phẩm chất làm nên chiến thắng mà mặt trái, nét tính cách đời thường, tha hoá sau chiến tranh Người lính lên với mát, hi sinh, bi kịch, thiệt thòi bước khỏi chiến tranh Đó điều truyện ngắn giai đoạn trước Tuy vậy, nhân vật bi kịchvẫn khẳng định phẩm chất, lĩnh kiên cường họ ứng phó với sống hoà cạnh đó, loại nhân vật tự thú, sám hối xuất ngày nhiều thể tâm thức người thời hậu chiến Người lính phía bên chiến tuyến thể truyện ngắn đương đại cách khách quan, bao dung nhân văn phác hoạ nhân vật với vẻ đẹp nhân với đó, nhân vật người phụ nữ xuất với bi kịch, dang dở, bất hạnh chiến với giai đoạn trước, họ nạn nhân chiến tranh thân chịu đựng, đức hi sinh, thuỷ chung vô bờ bến nên nỗi cô đơn, bất hạnh họ trở nên ám ảnh dù chiến tranh qua lâu Trong truyện ngắn chiến tranh đương đại xuất ngày nhiều nhân vật phụ nữ bị chiến tranh xô đẩy thành kẻ bội bạc, lang chạ- kiểu nhân vật truyện ngắn thời chiến Người phụ nữ quan tâm khát vọng năng, vấp ngã, sai lầm đời thường Họ thường khắc hoạ với cảm thông, bao dung, đời sống nội tâm phức tạpchứ không đơn chiều giai đoạn đặc trưng thể loại, truyện ngắn “chớp lấy” khoảnh khắc “loé sáng” đời nhân vật, kiểu loại nhân vật truyện ngắn chiến tranh đương đại mang diện mạo khác, góp phần phản ánh đầy đủ tác động chiến tranh đến số phận người Quan sát truyện ngắn chiến tranh đương đại từ yếu tố thuộc đặc trưng thể loại, thấy kế thừa thành tựu tổ chức nghệ thuật truyện truyền thống Tuy vậy, truyện ngắn chiến tranh đương đại có vận dụng linh hoạt sáng tạo, tiếp thu xu hướng nghệ thuật văn chương giới Truyện ngắn chiến 26 tranh thể nỗ lực làm kiểu cốt truyện tình sử dụng thành công lịch sử truyện ngắn Việt Nam trước Một số xu hướng tổ chức cốt truyện tiêu biểu văn học giới kỉ XX như cốt truyện dòng ý thức, cốt truyện mờ nhạt, cốt truyện kiểu hậu đại sử dụng khai thác đề tài chiến tranh tạo Truyện thường sử dụng lối kết xu hướng mở, tình đơn giản “mời gọi” độc giả trải nghiệm đồng sáng tạo Điều thể linh hoạt, độ mở cấu trúc nghệ thuật truyện ngắn chiến tranh đương đại mở khả chiếm lĩnh thực bề sâu chiều rộng Trong nghệ thuật trần thuật truyện sử dụng lối kể đại, tạo nên cách tân mẻ, tiệm cận với xu hướng vận động thể loại văn học giới Người kể chuyện thứ ba với lối kể khách quan, dửng dưng; người kể truyện thứ với điểm nhìn bên liên tục có dịch chuyển điểm nhìn trần thuật tạo màu sắc mẻ cho người kể chuyện truyện ngắn chiến tranh Cũng phải ghi nhận vận động ngôn ngữ truyện ngắn chiến tranh theo hướng gần gũi với đời sống đương đại thấm đượm chất triết lý trữ tình Sử dụng ngày nhiều ngôn ngữ mang tính đối thoại phương diện khai thác đề tài chiến tranh Cùng với đó, giọng điệu đa thanh, biến hoá Bên cạnh giọng điệu trữ tình, triết lý tranh biện, đối thoại, ăn năn, sám hối Tất điều góp phần làm nên sắc diện cho truyện ngắn sau 1975 đến chiến tranh Nghiên cứu truyện ngắn chiến tranh cách thức tìm hiểu văn học Việt Nam đương đại Nếu truyện ngắn 1945-1975 truyện viếtvề thực chiến tranh tiếp diễn thìsau 1975 nối liền chiến tranh hoà bình với bao vấn đề để ngỏ cho tương lai Tìm hiểu truyện ngắn chiến tranh góp thêm góc nhìn gợi mở nghiên cứu văn học chiến tranh nói chung Từ tri nhận giá trị thẩm mỹ nhân văn mà văn học viết đề tài gây dựng 27 [...]... tuổi, mức độ ảnh hưởng của chiến tranh đối với họ Từ đó luận án tập trung khảo sát một số kiểu loại nhân vật chủ yếu được khắc hoạ đậm nét trong truyện ngắn chiến tranh đương đại Các loại hình nhân vật tiêu biểu trong truyện ngắn sau 1975 viết về chiến tranh Thế giới nhân vật trong truyện ngắn chiến tranh Trong truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh, viết về chiến tranh khi nó đã kết thúc, có... làm nên sắc diện mới cho truyện ngắn sau 1975 đến nay về chiến tranh Nghiên cứu truyện ngắn chiến tranh cũng là một cách thức tìm hiểu văn học Việt Nam đương đại Nếu truyện ngắn 1945 -1975 là truyện viếtvề hiện thực chiến tranh đang tiếp diễn th sau 1975 là sự nối liền giữa chiến tranh và hoà bình với bao vấn đề còn để ngỏ cho hiện tại và tương lai Tìm hiểu truyện ngắn chiến tranh sẽ góp thêm một góc... thế của người viết đương thời, biên độ hiện thực chiến tranh được mở rộng Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ tiếp tục được phản ánh Cùng với đó, sự xuất hiện của nhiều truyện ngắn viết về cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam, của quân tình nguyện Việt Nam ở Lào, Cămpuchia và biên giới phía Bắc những năm sau 1975 là sự bổ sung làm nới rộng biên độ hiện thực Hiện thực chiến tranh được biểu... vấn đề nhân vật trong truyện ngắn chiến tranh, chúng tôi chọn hướng tiếp cận này như một cách thức để đưa ra những kiến giải về các kiểu nhân vật trong truyện ngắn đương đại về chiến tranh Cách phân loại nhân vật theo loại hình Tuỳ theo tiêu chí phân loại khác nhau mà có thể tìm thấy những loại nhân vật có sự tương đồng về một mặt nào đó Trong truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh, thế giới nhân... giấc mơ, tâm linh đan xen, kiểu truyện “giả thể loại” để biểu hiện cảm nhận của con người hiện đại về đời sống trong và sau chiến tranh Nhiều truyện có kiểu cốt truyện này như Kẻ sát nhân lương thiệnLại Văn Long Còn, Mười ba bến nước Sương Nguyệt Minh, Hai mươi năm sau Hồ Phương Cốt truyện tâm lý Sau năm 1975, kiểu cốt truyện này chiếm tỉ lệ lớn trong truyện ngắn, hướng đến thế giới hiện... thống Tuy vậy, truyện ngắn chiến tranh đương đại có sự vận dụng linh hoạt và sáng tạo, tiếp thu những xu hướng nghệ thuật của văn chương thế giới Truyện ngắn chiến 26 tranh thể hiện sự nỗ lực làm mới các kiểu cốt truyện và tình huống đã được sử dụng thành công trong lịch sử truyện ngắn Việt Nam trước đây Một số xu hướng tổ chức cốt truyện tiêu biểu trong văn học thế giới thế kỉ XX như cốt truyện dòng... Nguyễn Quang Thiều, cô gái ở làng chiến khu Giếng trong – Lê Tuấn Hiển, Hai Mật Trên mái nhà người phụ nữ - Dạ Ngân Họ tạo thành hệ thống nhân vật “ vọng phu” nhiều dáng vẻ, điển hình 16 cho nhân cách, phẩm chất, cách ứng phó với cuộc sống sau chiến tranh của không ít phụ nữ Việt Nam Nhân vật phụ nữ với bi kịch chiến tranh Truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh tiếp cận con người ở số phận... phân tích Vì vậy, truyện ngắn tăng cường sử dụng các từ ngữ mang sắc thái triết lí, suy tư Cùng với đó, ngôn ngữ trữ tình trải nghiệm, trầm lắng khi viết về cuộc sống sau chiến tranh đầy những điều phức tạp, bộn bề Ngôn ngữ mang tính đối thoại 23 Tinh thần đối thoại trước những vấn đề của chiến tranh và hậu chiến được cụ thể hoá qua ngôn ngữ Trong ngôn ngữ truyện ngắn chiến tranh không chỉ là... của độc giả đương đại Truyện ngắn cũng như các thể loại khác đã có sự vận động, đổi mới sâu sắc về mặt nội dung, kiếm tìm và thể nghiệm hình thức biểu đạt mới mẻ Điều đó dần kiến tạo sắc diện mới cho truyện ngắn đương đại 24 KẾT LUẬN Từ sau 1975 đến nay, truyện ngắn về chiến tranh vẫn là một mạch chảy trong dòng chung của văn học dân kế thừa mang tính sáng tạocủa truyện ngắn đề tài này cho thấysự... đường khác nhau mở rộng đường biên phản ánh hiện thực Đề tài chiến tranh khi nhìn từ thời bình không còn giới hạn trong phạm vi hẹp cả về tư tưởng và trường phản ánh Vì vậy, từ sau 1986, đặc biệt là những năm 90, truyện ngắn chiến tranh “nở rộ” với sự phong phú về số lượng, đa dạng về phong cách, mới mẻ và khách quan trong xử lý chất liệu chiến tranh Hiện thực và con người dần hiện lên với bề rộng và chiều - Xem thêm -Xem thêm Truyện ngắn việt nam sau năm 1975 viết về chiến tranh, Truyện ngắn việt nam sau năm 1975 viết về chiến tranh,
Ngày đăng 04/04/2014, 0857 Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 nhìn từ góc độ thi pháp thể loại 1 Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Giai đoạn 1945 - 1975 là thời kỳ truyện ngắn phát triển mạnh mẽ trong điều kiện chiến tranh. Tuy nhiên, hiện nay những công trình nghiên cứu về truyện ngắn cha nhiều, nhất là trên phơng diện thi pháp thể loại. Chọn nghiên cứu truyện ngắn từ góc độ thi pháp thể loại, chúng tôi không cho đây là một cách tiếp cận toàn diện nhng phần nào mở ra một hớng nghiên cứu mới cho thể loại truyện ngắn thời kỳ này. 2. Lịch sử vấn đề. Tình hình nghiên cứu lý thuyết truyện ngắn. Đã có rất nhiều tài liệu bàn về khái niệm và đặc trng của truyện ngắn. Tiêu biểu có thể kể đến ý kiến của Gulaiép, Pospêlốp, Hà Minh Đức, Nguyễn Công Hoan, Vơng Trí Nhàn, Bùi Việt Thắng Những ý kiến về truyện ngắn ở các tài liệu nêu trên rất phong phú đa dạng, song về cơ bản có hai loại Nêu ra những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn, từ những vấn đề mang tính lý luận nh vai trò, khả năng, phạm vi khám phá, cách thức chiếm lĩnh đời sống đến những vấn đề cụ thể kết cấu, cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ, chi tiết. Trình bày kinh nghiệm viết truyện ngắn. Loại ý kiến này thờng là của các tác giả có nhiều thành công với truyện ngắn. Để minh họa cho những nhận xét khái quát về thể loại, họ trình bày lại quá trình viết các tác phẩm và từ đó rút ra kinh nghiệm, bài học sáng tác. Loại ý kiến này không trực tiếp phục vụ cho việc giải quyết đề tài, nhng ít nhiều cũng là những gợi ý cần thiết cho chúng tôi trong quá trình tìm hiểu các sáng tác cụ thể, phục vụ cho việc khái quát lý thuyết Tình hình nghiên cứu truyện ngắn giai đoạn 1945 - 1975. Những công trình nghiên cứu về những vấn đề lý thuyết của truyện ngắn từ sau Cách mạng tháng Tám đến 1975. Những bài đánh giá chung về truyện ngắn cha nhiều. Điểm chung của các bài viết này là đều khẳng định truyện ngắn là một thể loại năng động, có khả năng thích ứng với cuộc sống thời chiến. Tuy nhiên, các dạng bài này, trong phạm vi của một bài viết, mới chỉ dừng lại ở một vài khía cạnh hoặc những nhận xét có tính chất khái lợc. 2 Trong số những công trình nghiên cứu về truyện ngắn giai đoạn này, phải kể đến luận án Tiến sỹ của Phùng Ngọc Kiếm Con ngời trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975. Luận án đi sâu nghiên cứu quan niệm nghệ thuật về con ngời trong truyện ngắn giai đoạn này bộ phận văn học cách mạng. Trong đó tác giả đề cập tới một số các vấn đề thi pháp truyện ngắn nh cốt truyện, ngôn ngữ, nhân vậtnhằm lý giải sự chi phối của quan niệm nghệ thuật về con ngời đối với các phơng diện nghệ thuật. Luận án Tiến sỹ của Nguyễn Khắc Sính Phong cách thời đại trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 đã tập trung khảo sát sự tác động, ảnh hởng của thời đại đối với truyện ngắn trên các phơng diện nh giá trị thẩm mỹ, chất trữ tình, chất hiện thực và quá trình vận động của các yếu tố này trong truyện ngắn 1945 - 1975. Các luận án trên ít nhiều đều có sự gặp gỡ với luận án của chúng tôi ở đối tợng nghiên cứu, xét trên phạm vi rộng là tác giả và tác phẩm. Tuy nhiên, cha có công trình nào nghiên cứu theo hớng thi pháp thể loại, đi sâu khám phá truyện ngắn Việt Nam giai đoạn này trên cơ sở đặc trng thể loại. Những bài nghiên cứu về tác giả. Loại bài nghiên cứu về một tác giả xuất hiện tơng đối nhiều, tập trung ở một số tác giả sáng tác đều đặn và bớc đầu định hình những nét riêng nh Nguyên Ngọc - Nguyễn Trung Thành, Vũ Thị Thờng, Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức, Giang Nam, Phan Tứ một số luận văn về Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc Ngoài ra còn rất nhiều bài viết về các tác giả khác nh Giang Nam, Phan Tứ, Nguyễn Thi, Nguyễn KhảiĐiểm chung của loạt bài này là các tác giả thờng cố gắng phát hiện ra những nét riêng của từng tác giả, tuy không nhiều. Loạt bài này đã giúp chúng tôi khá nhiều trong việc nghiên cứu các khuynh hớng của truyện ngắn Việt Nam trong giai đoạn 1945 - 1975. Những bài viết về từng tác phẩm. Loại bài này rất nhiều ở các các báo, tạp chí. Loạt bài này có tác dụng giúp chúng tôi tìm hiểu sự trởng thành của một tác giả trong sự phát triển của một thời kỳ nhất định. 3. Đối tợng và giới hạn nghiên cứu. Đối tợng khảo sát. Luận án chọn mốc thời gian từ 1945 đến 1975, vì đây là giai đoạn đất nớc có chiến tranh, văn học chịu sự chi phối của qui luật chiến tranh. 3 Tuy nhiên, truyện ngắn cha xuất hiện nhiều trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Vì vậy, luận án khảo sát chủ yếu là truyện ngắn từ những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp đến 1975 của những tác giả tiêu biểu, đã định hình về mặt phong cách. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. Do đối tợng khảo sát tơng đối rộng, cộng thêm sự khó khăn khi tìm tài liệu, nhất là những truyện ngắn đợc ra đời ở các đô thị miền Nam thời bị tạm chiếm nên chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi khảo sát ở bộ phận văn học Cách mạng. Luận án chỉ giới hạn ở những vấn đề mang tính đặc trng và đáng quan tâm hơn cả của truyện ngắn 1945 - 1975 nh cốt truyện, nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ. Đó là những cấp độ quan trọng của cấu trúc truyện ngắn, đồng thời là nơi bộc lộ rõ những đặc trng của truyện ngắn phát triển trong điều kiện chiến tranh. 4. Phơng pháp nghiên cứu. Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đề tài "Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 Nhìn từ góc độ thi pháp thể loại", luận án sử dụng các phơng pháp nghiên cứu chủ yếu sau phơng pháp loại hình, phơng pháp tiếp cận thi pháp học, phơng pháp so sánh và phơng pháp xã hội học. 5. Những đóng góp của luận án Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của những ngời đi trớc, luận án cố gắng phác họa một mô hình chung nhất về thi pháp truyện ngắn 1945 - 1975. Qua đó hiểu đợc sự vận động và tiếp nối của thể loại truyện ngắn qua các giai đoạn. Góp phần nhìn lại một số vấn đề về nội dung và nghệ thuật của thể tài truyện ngắn trong văn xuôi Việt Nam hiện đại thời kỳ 1945 - 1975 nhằm khẳng định những đóng góp của thể loại này đối với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. 6 Giới thuyết một số khái niệm 7. Cấu trúc của luận án. Luận án có 198 trang. Ngoài phần mở đầu 12 trang, phần kết luận 6 trang, phần tài liệu thamkhảo gồm 222 tài liệu 16 trang và phần phụ lục danh mục các tác phẩm đã khảo sát gồm 125 tác phẩm 6 trang., luận án đợc chia làm ba chơng 158 trang Chơng 1 Diện mạo chung của truyện ngắn 1945 - 1975; Chơng 2 Hai kiểu cấu trúc thể loại; Chơng 3 Kết cấu, các loại hình nhân vật, giọng điệu và ngôn ngữ 4 Chơng I Diện mạo chung của truyện ngắn 1945 - 1975 Đây là chơng chúng tôi trình bày hai vấn đề cơ bản của truyện ngắn giai đoạn 1945 - 1975 I. Khả năng bao quát hiện thực rộng lớn. 1. Phản ánh cuộc kháng chiến chống Pháp. Những ngày đầu sau Cách mạng tháng Tám, các nhà văn lớp trớc nh Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Bùi Hiển cha thích nghi đợc với hoàn cảnh mới nên cha có nhiều sáng tác theo kịp những biến chuyển to lớn của thời đại. Chỉ có một số truyện ngắn của Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tởng nh Mò sâm banh, Địa ngục và Lò lửa, Vỡ tỉnh, Một phút yếu đuổi ít nhiều ghi lại đợc hình ảnh xã hội Việt Nam trong đêm trớc của cuộc cách mạng và khí thế sục sôi của dân tộc trong cuộc trở dạ vĩ đại của lịch sử. Bớc vào cuộc kháng chiến, truyện kí kháng chiến, tuy không nhiều, đã phản ánh khá trung thực cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện trên các chiến trờng khác nhau, đồng thời nêu lên sức mạnh vô địch của cuộc chiến tranh nhân dân dới sự lãnh đạo của Đảng. Ngời nông dân kháng chiến và anh bộ đội cụ Hồ trở thành nhân vật trung tâm của nhiều truyện ngắn Một lần tới Thủ đô của Trần Đăng, Làng, Vợ nhặt của Kim Lân, Đôi mắt của Nam Cao, Th nhà của Hồ Phơng, Voi đi của Siêu Hải, Con đờng sống của Minh Lộc, Tây đầu đỏ của Sơn Nam, Bên rừng Cù lao Dung của Phạm Anh Tài, Cây đớc Cà Mau của Đoàn Giỏi. 2. Phản ánh cuộc đấu tranh thống nhất đất n ớc. Sau 1954, hòa bình đợc lập lại trên miền Bắc. ở miền Nam, vẫn đang trong tình trạng nớc sôi lửa bỏng. Hoàn cảnh ấy đã gây nên sự nhức nhối trong tình cảm của nhân dân hai miền Nam Bắc và sâu hơn là niềm mong mỏi thiết tha thống nhất nớc nhà. Tâm t, nguyện vọng ấy đã đợc nhiều nhà văn quan tâm và tạo thành cảm hứng chủ đạo cho mạch truyện viết về miền Nam, về cuộc đấu tranh thống nhất nớc nhà Cây đàn miền Bắc - Phạm Anh Tài, Lá cờ mình - Nguyễn Văn Tâm, Em bé - Hoàng Minh Châu, Hai em bé miền Nam - Hoài Vũ, Trung thành - Nguyễn Thành Long Trong hoàn cảnh đó, những sáng tác mang màu sắc bi quan, buồn nản đã xuất hiện Về nhà- Nguyễn Thành Long; Im lặng - Nguyễn Ngọc Tấn, Vết thơng - Hải Hồ, Đứa con - Nguyên Ngọc, Sau hai chiến dịch - Minh 5 Giang, Theo thời gian, thứ tâm trạng buồn yếu, bi quan đó ngày càng bớt đi, thay vào đó là những sáng tác lành mạnh, trong trẻo hớng về miêu tả hành động, việc làm của những con ngời miền Nam trên đất Bắc. Đáng chú ý là hai tập truyện Trăng sáng và Đôi bạn của Nguyễn Ngọc Tấn. 3. Phản ánh công cuộc xây dựng chủ nghĩa x hội. Về cuộc cách mạng dân chủ. Song song với đề tài đấu tranh thống nhất nớc nhà, truyện ngắn miền Bắc cũng cố gắng bám sát dòng chảy của lịch sử với những sự kiện trung tâm của thời đại nh Cải cách ruộng đất, xây dựng chủ nghĩa xã hội Tiếng hát trên đỉnh Hoa Sơn - Mộng Lục, Lớp học vùng cao - Trịnh Ngọc Khu, Ngời chú dợng - Kim Lân, Lấy nớc ao trời - Huy Phơng, Thôn Kim đoàn kết làm chiêm - Đăng Tiến. Nhiều truyện đi sâu khai thác cuộc đời của những nhân vật vốn là nạn nhân của quan hệ sản xuất cũ nay nhờ cách mạng mà đã tìm thấy niềm vui, hạnh phúc, giá trị cuộc sống của mình Cây mít - Nguyễn Công Hoan, Ngời vợ lẽ - Đỗ Quang Tiến, Ông lão chăn bò trên núi Thắm - Xuân Thu, Đờng cày trên đám ruộng - Đặng Hữu Phát, Ma đêm - Vũ Giang, Nên vợ nên chồng - Kim Lân, Hai cha con - Nguyễn Địch Dũng. Nhìn chung, truyện ngắn thời kỳ này đã phản ánh đợc hiện thực bề bộn, phức tạp hơn so với kháng chiến chống Pháp. Nhng nhân vật còn đơn giản, cha sinh động, nhiều khi thiếu chân thực. Do đó những tác phẩm thành công về cuộc Cách mạng dân chủ cha có nhiều và cũng cha đủ sức v ợt qua thử thách của thời gian. Về cuộc cách mạng x hội chủ nghĩa Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng làm thay đổi nhiều mặt toàn bộ xã hội. Tất cả những thay đổi đó hiện lên khá rõ trên nhiều truyện ngắn tiêu biểu trong các tập Hai vợ, Trai làng Quyền Nguyễn Địch Dũng, Mùa lạc Nguyễn Khải, ánh sáng bên hàng xóm Chu Văn, Quê hơng Vũ Tú Nam, Gánh vác Vũ Thị Thờng, Đồng tháng năm, Vụ mùa cha gặt Nguyễn Kiên Càng về sau, truyện ngắn càng phản ánh hiện thực phong phú và có chiều sâu hơn. Một số truyện ngắn của Vũ Thị Thờng, Nguyễn Kiên, Nguyễn Địch Dũng Câu chuyện xảy ra không tránh khỏi, Cái lạt, Anh Keng, Nhà chị Nhỡ đi sâu vào nghiên cứu, tái hiện cuộc đấu tranh trong nội bộ nhân dân, nhằm làm cho đội ngũ trong sạnh, vững mạnh hơn. Điều đó chứng tỏ, các tác giả đã hiểu rõ hơn về ngời nông dân tập thể và không chỉ dừng lại ở mức độ minh họa cho chủ trơng chính sách. Nhìn chung, mỗi ngời viết trong khả năng của mình 6 đều cố gắng dựng lại những đổi mới cơ bản ở nông thôn, nhằm khẳng định bớc tiến của cách mạng, của nông thôn trên con đờng xây dựng chủ nghĩa xã hội. 4. Phản ánh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nớc Sau những thất bại nặng nề ở miền Nam, ngày 5/ 8/ 1964 Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Cả nớc bớc vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nớc. Trong tình hình ấy, nhiều nhà văn lên đờng trở về quê hơng nh Anh Đức, Phan Tứ, Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành Và họ đã có những sáng tác kịp thời về cuộc chiến đấu của đồng bào miền Nam Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành, Con chị Lộc - Anh Đức, Quán rợu ngời câm - Nguyễn Quang Sáng, Ngời tị nạn - Vĩnh Hòa, Về làng của Phan Tứ, Vở kịch cô giáo của Giang Nam, Chiếc guốc xinh xinh của Thủy Thủ. Đặc biệt, cuộc đối đầu trực tiếp của nhân dân miền Nam với kẻ thù để giữ ruộng đất đợc nhiều tác giả quan tâm Giữa vòng vây - Trúc Hà, Mùa gió, Đất - Anh Đức, Lửa đêm - Phan Tứ, Chuyện bên bờ sông Vàm cỏ - Lê Văn Thảo, Về làng - Phan Tứ. Có thể nói, truyện ngắn miền Nam đã phản ánh kịp thời, chân thực về hiện thực cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Nó đã tái hiện lại đợc nhiều kiểu ngời tích cực, nhiều hiện thực đau thơng nhng rất hào hùng của miền Nam trong chiến tranh. ở miền Bắc, đề tài đấu tranh chống Mỹ đợc thể hiện với sắc thái khác vừa chiến đấu vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội Những vùng trời khác nhau - Nguyễn Minh Châu, Quán bên đờng - Nguyễn Thị Ngọc Tú, Ngời cầm súng - Lê Lựu, Mùi thơm dây cháy chậm - Cao Tiến Lê. Chân dung con ngời Việt Nam trong truyện ngắn chống Mỹ đã dần đợc triển khai qua nhiều bối cảnh, dáng vẻ. Nhng cũng phải nhận thấy rằng, ở buổi đầu, sự đúc kết cuộc sống vào các chân dung, các điển hình cha phải đã tốt. Không ít nhân vật còn rất mờ nhạt và thờng là hao hao giống nhau. II. Một giai đoạn chủ yếu đợc sáng tác theo cảm hứng lãng mạn và khuynh hớng sử thi. 1. Cảm hứng lng mạn. Con ngời lạc quan. Trong truyện ngắn, cảm hứng lãng mạn đợc thể hiện trớc hết ở việc xây dựng nhân vật. Để thể hiện bản lĩnh, niềm lạc quan của con ngời Việt Nam trong chiến đấu, truyện thờng xoay quanh tình huống cơ bản một bên là ta ngời cán bộ, chiến sỹ, nhân dân ở trong tình thế bất lợi và bên kia là kẻ địch hung bạo, tàn ác, đợc trang bị vũ khí hiện đại. Nhng bằng 7 ý chí, niềm tin, nghị lực bao giờ ta cũng là ngời chiến thắng Rừng xà nu, Đất, Giấc mơ ông lão vờn chim, Chuyện bên bờ sông Vàm cỏ, Gieo mầm, Mầm sống, Niềm vui thầm lặng, Chân trời tím, Những đứa con trong gia đình, Lửa đêm Trong các truyện về đề tài sản xuất, xây dựng cuộc sống mới thiên nhiên khắc nghiệt và cả các lề thói, định kiến luôn là những cản trở đối với con ngời. Trong hoàn cảnh ấy, con ngời buộc phải có nghị lực, quyết tâm để có thể vợt qua Ché Mèn đợc đi họp - Nông Minh Châu, Ngời vợ - Nguyễn Địch Dũng, Xa Phủ - Ma Văn Kháng, Hạnh phúc - Vũ Thị Thờng, Màu tím hoa mua - Nguyễn Thị Nh Trang, Đêm trong làng - Nguyễn Thị Ngọc Tú Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đều nhằm ca ngợi tinh thần lạc quan của con ngời trớc các thử thách của hoàn cảnh. Xu hớng lý tởng hóa hoàn cảnh sống của nhân vật Giai đoạn 1945 - 1975 là thời kỳ số phận cộng đồng đợc đặt lên hàng đầu. Ngời với ngời sống với nhau trong tình chan hòa, thân ái. Do đó, con ngời tiến bộ hay lạc hậu hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân họ, còn môi trờng luôn luôn tốt. Nhiều truyện đã đề cập đến sự đổi đời của những con ngời từng là nạn nhân trong xã hội cũ nay tìm lại đợc niềm vui, hạnh phúc trong cuộc sống mới Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ng ời vợ lẽ - Đỗ Quang Tiến, Bộ quần áo mới - Ngô Ngọc Bội, Hoa đào năm ngoái - Chu Văn, Ma đêm - Vũ Giang, Gặp bạn, Trai làng Quyền - Nguyễn Địch Dũng, Hai chị em - Vũ Thị Thờng, Mùa lạc, Đứa con nuôi - Nguyễn Khải, Lẽ mọn - Nguyễn Thị Cẩm Thạch, Tiếng sóng khuya - Nguyễn Kiên. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nớc ngày càng sôi nổi, thu hút sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân. Nhiều truyện ngắn đã xây dựng những kiểu nhân vật tự nhận thức để tiến kịp phong trào nh nhân vật cô giáo Vở kịch cô giáo - Giang Nam, ông Sần Về làng - Phan Tứ, Ngời đàn bà Tháp Mời trong tác phẩm cùng tên của Nguyễn Quang Sáng. Điều này chứng tỏ sức cảm hóa kỳ diệu của cách mạng, của hoàn cảnh đối với con ngời. 2. Khuynh hớng sử thi Đề tài Theo nhà phê bình Lại Nguyên Ân thì "Tính chất sử thi của nền văn học mới Việt Nam thể hiện trớc hết ở chỗ nó lấy đối tợng miêu tả chủ yếu là cuộc đấu tranh của dân tộc nhằm thoát khỏi mọi ách ngoại xâm nó ca ngợi sự nghiệp dựng nớc và giữ nớc của toàn dân trong hiện tại và 8 quá khứ, ngợi ca xả thân vì dân tộc, đất nớc của những ngời con u tú của dân tộc 10, 120. Truyện ngắn cũng không phải là ngoại lệ. Nhân vật Nhân vật là phơng diện thể hiện rõ sự chi phối của khuynh hớng sử thi vào truyện ngắn. Nhìn chung, truyện ngắn thời kỳ này tập trung vào hai kiểu nhân vật những con ngời mang t tởng, khát vọng của thời đại và những con ngời kết tinh bản lĩnh, khí phách của dân tộc, thời đại ở loại thứ nhất, đời sống riêng của cá nhân đợc thể hiện nh đời sống chung của dân tộc. Trong bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng hành xử với t cách một công dân, một chiến sỹ nh Thân Cái hom giỏ, hai chị em Chiến và Việt Những đứa con trong gia đình, ông T vờn chim Giấc mơ ông lão vờn chim, anh Khang, chị Tiềm Mùa cá bột, Tâm Nếm nớc Tất cả họ đều tự nhận thức đợc về trách nhiệm của mình đối với đất nớc, luôn coi lý tởng cách mạng là nguồn vui, lẽ sống. Kiểu ngời thứ hai đợc xây dựng để phản ánh bớc đờng đi lên của lịch sử, dân tộc ông Hai - Làng, Mỵ và A Phủ - Vợ chồng A Phủ, Độ - Đôi mắt, Lợng - Th nhà , Miên - Gặp gỡ, ông Tám Xẻo Đớc - Đất, chị út - Mẹ vắng nhà; cụ Mết - Rừng xà nu Chơng II hai kiểu cấu trúc thể loại Truyện ngắn trữ tình. Phơng thức tiếp cận và chiếm lĩnh hiện thực. Với một lối tiếp cận và cảm nhận u ái, nâng niu, các cây bút thuộc khuynh hớng này không đi vào khai thác những xung đột xã hội gay gắt mà nghiêng về khai thác vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nớc và nhất là vẻ đẹp tâm hồn con ngời. Vì vậy, nó thờng nắm bắt đợc cái hồn, cái thần thái của hiện thực hơn là tái hiện hiện thực dới hình thức trực tiếp. Cốt truyện với chức năng bộc lộ trạng thái, tâm tởng Truyện ngắn trữ tình là truyện về thế giới đời sống đã đợc khúc xạ qua lăng kính tâm hồn của tác giả, là truyện về niềm vui, nỗi buồn của con ngời trớc cuộc sống. Nói cách khác, những chi tiết, sự kiện, biến cố chỉ là cái nền, cái cớ để nhân vật phô diễn thế giới nội tâm phong phú của mình. Thung lũng cò, Đờng qua nhà, Tiếng ma . 9 Để những truyện "không có chuyện" có thể "đứng" đợc, không rơi vào tình trạng chết yểu, vô vị nhà văn phải tạo ra một "không khí" quán xuyến toàn bộ truyện, một "môi trờng sống" cho nhân vật bằng cách đa vào trong truyện những chi tiết chân thực, chính xác, đáp ứng yêu cầu "phản ánh chân thực hiện thực cuộc sống". Do quan niệm "cốt truyện không thành vấn đề lắm", các cây bút trữ tình ít chú ý tới những sự kiện, biến cố khách quan mà chủ yếu quan tâm tới những biến cố bên trong, những suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật. Nhân vật trữ tình Nhân vật trữ tình là kiểu nhân vật có thế giới nội tâm phong phú, phức tạp, có tâm hồn nhạy cảm, dễ rung động trớc những biến chuyển của đời sống. Đỗ Chu, Nguyễn Thị Nh Trang, Nguyễn Thành Long, Anh Đức, Nguyễn Minh Châu có sở trờng xây dựng loại nhân vật này. Hành động không còn là cốt lõi của nhân vật. Nhân vật không đợc miêu tả qua ngoại hình, hành động mà chủ yếu xuất hiện qua tâm trạng và miêu tả tâm trạng cũng không nhằm cắt nghĩa, lý giải cho hành động Nhân vật trữ tình, trớc hết, là những con ngời rất tinh tế và nhạy cảm trong cảm nhận cuộc sống, con ngời. Để có đợc những cảm nhận đó, họ phải là những con ngời có một tình yêu mặn mà, tha thiết với cuộc sống quanh mình. "Nặng yêu thơng, tâm sự, hồi tởng" cũng là một đặc điểm của nhân vật trữ tình. Họ không phải là những ngời không có gì để nhớ, càng không phải là những ngời mau quên hoặc cố tình quên những gì đã qua mà là những con ngời nặng tình nặng nghĩa, có thủy có chung. Không chỉ sống với thế giới hiện tại, họ còn có cả một ký ức tuổi thơ phong phú để đi về sau những truân chuyên của cuộc đời. Tình huống truyện Đối với truyện ngắn trữ tình, tình huống truyện không nhằm thúc đẩy hành động của nhân vật cũng nh khái quát các mâu thuẫn của đời sống mà chỉ đóng vai trò khơi nguồn, châm ngòi cho việc lý giải nguyên cớ, nguồn cơn của những tâm trạng, những biến thái tinh thần của nhân vật. Chúng tôi chia các tình huống ở truyện ngắn trữ tình thành ba dạng Tình huống tự nhận thức Đây là dạng tình huống cho loại truyện viết về đời thờng, gắn với khả năng tự nhận thức, tự soi xét chính mình của nhân vật. Qua những tình huống nh vậy, nhà văn gửi gắm quan niệm của mình về đời sống, xã hội, 10 con ngời Lao động quang vinh, Làm việc - Nguyễn Ngọc Tấn; Chiến sỹ quân bu, Vòm trời quen thuộc - Đỗ Chu; Con chim bã trầu - Nguyễn Thành Long; Tình huống hồi cố Là tình huống đặt nhân vật sống lại những hồi ức, những kỷ niệm, những hồi cố về quá vãng, tìm về ngày xa với một sự trân trọng, tạo thành kiểu tình huống chất đầy tâm trạng và giàu sức gợi Quê hơng, Về Nam - Nguyễn Ngọc Tấn; Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng, Rẻo cao - Nguyên Ngọc; Hơng cỏ mật, Ráng đỏ - Đỗ Chu; Kí ức tuổi thơ - Anh Đức; Tiếng ma, Con đờng và dòng sông - Nguyễn Thị Nh Trang;. Tình huống khơi mở tâm lý. Truyện ngắn trữ tình thờng chú ý đến những khoảnh khắc bất ngờ, ngắn ngủi, thâu thái đợc những xung động tâm lý căng, nhạy có khả năng khơi mở, đánh động những rung động khẽ khàng, tinh tế ở bên trong. Nó là tiêu điểm thu gọn để làm nảy sinh cảm xúc, cảm giác. Chính vì thế, tình huống khơi mở tâm lý là tình huống tiêu biểu nhất của truyện ngắn trữ tình, giàu tiềm năng khơi mở cõi lòng bí ẩn của con ngời Mùa cá bột, Phù sa, Trong tầm súng - Đỗ Chu; Lặng lẽ Sa Pa, Giữa trong xanh, Buổi sáng thần tiên - Nguyễn Thành Long; Chuyện ở đảo, Con đờng và dòng sông - Nguyễn Thị Nh Trang;. Nghệ thuật trần thuật Trần thuật từ ngôi thứ nhất Là kiểu trần thuật phổ biến trong truyện trữ tình. Hình thức ngời kể chuyện từ ngôi thứ nhất tạo tiền đề cho quyền tự bộc lộ của ng ời viết, phát huy một cách tối đa vai trò và sự hiện diện của mình trong văn bản nghệ thuật. Đồng thời rút ngắn khoảng cách giữa ngời kể chuyện và nhân vật, tạo độ tin cậy cho tác phẩm. Kiểu trần thuật này cho phép đa vào lời trần thuật quan điểm riêng, sắc thái cá tính mang đậm màu sắc chủ quan, tăng cờng chất trữ tình cho câu chuyện Tiếng ma - Nguyễn Thị Nh Trang, Ký ức tuổi thơ - Anh Đức, Mùa nấm tràm - Đinh Quang Nhã Nhịp điệu trần thuật chậm ri, khoan thai Cơ sở để tạo nên nhịp điệu trần thuật ấy chính là do đặc trng thể loại quy định. Hầu hết truyện ngắn trữ tình đều rất ít sự kiện. Những sự kiện, biến cố ít ỏi này không đợc phát triển để trở thành biến cố mà thờng bị kéo dãn ra, mờ nhạt dần theo dòng tâm trạng của nhân vật. Đó là nguyên [...]... những nét cá tính không thể trộn lẫn với bất cứ nhân vật nào khác Đó là văn sỹ Hoàng ôi mắt - Nam Cao, Đào Mùa lạc - Nguyễn Khải, ông Tám Xẻo Đớc ất - Anh Đức, bác 18 Tám Sành Lửa đêm - Phan T , Cụ Mết Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành, ông Năm Hạng ng Năm Hạng- Nguyễn Quang Sáng, hai chị em Chiến và Việt Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi Để xây dựng loại nhân vật này, các tác... phải phục tùng tập thể Trong hoàn cảnh ấy, kiểu nhân vật hết lòng lo toan những công việc chung, có hoàn cảnh gia đình khó khăn nh Năm Gia đình lớn - Nguyễn Khải; Thân Cái hom gi , Thơm Cái đĩ con, Bí th Vợi Một ngày, chủ nhiệm Chẩn Neo đơn, bác Mục Ngày xuân, Chủ tịch Bình êm mùa thu, cụ T Gấc, anh Khang, chị Tiềm Mùa cá bột, đội trởng Nham Phù sa xuất hiện nhiều Có thể nói, lớp ngời... hình thức của thời đại" 1 29, 36 2 Có thể xem một hình thức thời đại của giai đoạn 1945 - 1975 chính là truyện ngắn Trong xu thế chung của thời đại, với tất cả những u điểm thể loại, truyện ngắn giai đoạn 1945 - 1975 đã phát triển về nhiều mặt, phù hợp với điều kiện chiến tranh Sự phát triển của truyện ngắn không chỉ đợc khẳng định qua những thành tựu sáng tác của cá nhân, mà còn thể hiện rõ ở sự biến... diện mạo, bản chất của truyện ngắn đã có nhiều thay đổi Truyện ngắn giai đoạn 1945 - 1975 không chỉ kế thừa những thành tựu của truyện ngắn những giai đoạn trớc mà còn là sản phẩm riêng của thời đại đấu tranh cách mạng Sự phát triển của truyện ngắn giai đoạn này chứng tỏ xu hớng của cả một thể loại đang tìm cách vận động để đáp ứng cao nhất yêu cầu của thực tiễn lúc đó là cổ vũ, động viên, tuyên truyền... những nguyên tắc thể loại, những phơng tiện và phơng thức nhận thức cuộc sống Chính những thay đổi này đã tạo cho truyện ngắn 1945 - 1975 một diện mạo riêng, mang dấu ấn của thời đại Có nhiều cách để tìm hiểu truyện ngắn mà mỗi cách đều chỉ ra những bình diện khác nhau cho việc khảo sát loại hình Trong phạm vi luận án, chúng tôi tập trung khảo sát truyện ngắn từ góc độ thi pháp thể loại để thấy qua... tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, truyện ngắn lại đề cập đến một kiểu ngời mới ở nông thôn miền Bắc Qua đó, các tác giả phản ánh sự vận động và khí thế chung dân tộc, thời đại nh Mỵ Vợ chồng A Ph , chị Nhâm Chị Nhâm, Đoan Ngời v , bà cụ Thuận Buổi tối trong gia đình, lão Học Con trâu bạc, Chủ tịch Bình êm mùa thu, chủ nhiệm Chẩn Neo đơn Nhân vật loại hình kết hợp với nhân vật tính... biệt, truyện ngắn một mặt kế thừa và phát huy những thành tựu của những giai đoạn trớc, mặt khác cũng đã tạo nên những đặc điểm thi pháp riêng của thể loại trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định Luận án tập trung khảo sát ba vấn đề thuộc về thi pháp thể loại Đó là kết cấu, các kiểu loại nhân vật, giọng điệu và ngôn ngữ Qua sự khảo sát, phân tích chúng tôi nhận thấy những đặc điểm thi pháp thể loại truyện. .. sống, con ngời Loại tình huống này xuất hiện chủ yếu trong loại truyện thông qua số phận của một cá nhân cụ thể để ca ngợi tính u việt của chế độ xã hội chủ nghĩa đối với con ngời Vợ nhặt - Kim Lân, Anh Keng Nguyễn Kiên, Nhà chị Nhỡ, Trai làng quyền - Nguyễn Địch Dũng, Bộ quần áo mới - Ngô Ngọc Bội thuật trần thuật Trần thuật khách quan Khảo sát truyện ngắn hiện thực 1945 - 1975, chúng tôi... ngời công dân Giai đoạn 1945 - 1975 là thời kỳ đất nớc có chiến tranh Lợi ích cộng đồng trở thành nguyên tắc hàng đầu Do đó, xét trên đại thể, có thể thấy quan niệm nghệ thuật về con ngời của truyện ngắn 30 năm chiến tranh cách mạng là con ngời chính trị, con ngời công dân, con ngời hớng về cách mạng Con ngời cộng đồng trong truyện ngắn 1945 - 1954 Khám phá con ngời từ phơng diện xã hội, từ trách nhiệm... thể của một xã hội tốt đẹp cũng là một hớng khẳng định sự hoà nhập riêng chung của con ngời trong truyện ngắn lúc này Nhiều truyện ngắn đi theo hớng này đã thể hiện đợc khát vọng hạnh phúc của con ngời, nhất là những con ngời từng chịu nhiều đau khổ, thi t thòi ờng cày trên đám ruộng, Chị Nhâm, Bộ quần áo mới, Hoa đào năm ngoái, gặp bạn, Trai làng Quyền Con ngời sử thi trong truyện ngắn 1965 - 1975 . 4. Phơng pháp nghiên cứu. Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đề tài " ;Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 Nhìn từ góc độ thi pháp thể loại ", luận án sử dụng các phơng pháp nghiên. trung khảo sát truyện ngắn từ góc độ thi pháp thể loại để thấy qua các thời kỳ lịch sử diện mạo, bản chất của truyện ngắn đã có nhiều thay đổi. Truyện ngắn giai đoạn 1945 - 1975 không chỉ kế. Hoàng ôi mắt - Nam Cao, Đào Mùa lạc - Nguyễn Khải, ông Tám Xẻo Đớc ất - Anh Đức, bác 19 Tám Sành Lửa đêm - Phan T , Cụ Mết Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành, ông Năm Hạng ng Năm - Xem thêm -Xem thêm Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 nhìn từ góc độ thi pháp thể loại , Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 nhìn từ góc độ thi pháp thể loại ,
1. Đặc trưng thể loại và cảm hứng sáng tác Giá trị của một truyện ngắn chính là sức dung chứa những ý tưởng lớn trong một “kích cỡ nhỏ” của tác phẩm. Một trong những tiền đề quan trọng làm nên thành tựu của văn học Việt Nam đó là hiện thực cách mạng khơi nguồn cho sự sáng tạo và là cảm hứng chủ đạo của nhiều tác phẩm văn chương. Truyện ngắn từ sau năm 1975 đã phản ánh rất rõ sự thay đổi của hiện thực cuộc sống, rõ nét nhất trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng… Nhận thức được điều này, khi tìm hiểu, tiếp cận truyện ngắn Việt Nam từ sau năm 1975, cần chú ý đến cảm hứng sáng tác của từng tác giả nói riêng và cảm hứng của thời đại nói chung. Khơi nguồn cảm hứng từ trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là hiện thực cuộc sống được phản ánh qua cái nhìn của người nghệ sĩ. Đằng sau cái bức tranh bình minh trên biển đẹp tuyệt đích, hoàn mĩ ấy là sự thật tồi tệ, phũ phàng – cuộc sống của gia đình hàng chài một người đàn bà bị chồng hành hạ vô lí nhưng không bao giờ muốn từ bỏ kẻ độc ác ấy; những chiến sĩ nhiệt thành từng chiến đấu giải phóng miền Nam nhưng lại không thể nào giải thoát cho một người đàn bà bất hạnh. Còn trong truyện ngắn Một người Hà Nội, điều cơ bản mà nhà văn hướng đến là hiện thực cuộc sống thông qua nhân vật cô Hiền. Hình tượng ấy được xây dựng lên như để chứng minh có một tinh thần Hà Nội, một linh hồn Hà Nội thực sự đã và đang tồn tại, để lại dấu ấn đậm nét trong những người con của nó. Do vậy, cảm hứng chính của nhà văn trong tác phẩm này là khám phá bản sắc văn hoá Hà Nội – cái quyết định vận mệnh và vị thế của Hà Nội trong lịch sử, cũng là cái làm nền tảng cho bước phát triển mới của nó trong tương lai, như tác giả đã khẳng định “Một người như cô phải chết đi thật tiếc, một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng”. 2. Về không gian, thời gian nghệ thuật * Không gian nghệ thuật Sau năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, văn xuôi thường viết về vấn đề đời tư, thế sự; không gian ở đó là không gian sinh hoạt đời thường. Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 cũng nằm trong dòng chảy chung của văn học nước nhà, thể hiện rõ nét trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải. Họ viết về cuộc sống thành thị, nông thôn, về số phận con người trong thời đại mới. Vì thế ta thường thấy xuất hiện những không gian trong sinh hoạt đời thường. Đó là nơi để nhân vật hoạt động và tự thể hiện mình trong cuộc sống thường ngày. Cái không gian chật chội của một gia đình có năm đứa con trên một con thuyền lênh đênh trên biển những lúc sóng to gió lớn; cũng có lúc khổ đau đến tận cùng vì người chồng vũ phu “cứ ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ”. Thế nhưng người vợ ấy vẫn không chịu bỏ chồng theo đề nghị của người làm công lí vì nhiều lí do mà bà đưa ra hết sức thuyết phục. Nhưng xét đến cùng, trong không gian ấy con người bộc lộ đến cùng bản chất nhiều mặt tốt – xấu, thiện – ác, cao cả – thấp hèn, cách đối nhân xử thế của mình. Qua đó tác giả thể hiện cái nhìn về những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh. * Thời gian nghệ thuật Đọc truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải, chúng ta dễ dàng nhận ra thời gian nghệ thuật ở trong tác phẩm là thời gian của quá khứ, hiện tại và tương lai. Nó đan quyện vào nhau, gắn kết với nhau để con người thể hiện mình, từ đó làm nên giá trị, ý nghĩa của tác phẩm. Điều đó thể hiện rõ nét qua hình ảnh cô Hiền – một người Hà Nội trong truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải luôn lặng lẽ giữ lấy nét hào hoa, thanh lịch của văn hoá Hà Nội lại được đặt giữa bối cảnh đã có sự đối lập giữa lối sống của người Hà Nội xưa với người Hà Nội hôm nay. Có thể nói rằng, các tác giả truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 đã rất thành công trong việc sử dụng thời gian như một phương tiện hữu hiệu để tạo nên hiệu quả nghệ thuật nhất định. Do vậy, tìm hiểu yếu tố thời gian nghệ thuật trong tác phẩm không những là để khám phá tác phẩm mà còn giúp học sinh thấy rõ được tài nghệ của nhà văn; có nhận thức được sự sâu sắc, tinh tế về nội dung của tác phẩm, thì việc tiếp nhận tác phẩm mới trở nên toàn vẹn hơn. 3. Ngôn ngữ, giọng điệu * Ngôn ngữ Ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 thể hiện hết sức phong phú, đa dạng vừa gần gũi, bình dị như cuộc sống hàng ngày lại vừa đầy suy tư, sâu lắng. Truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải và Chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn Minh Châu là minh chứng hùng hồn cho đặc điểm đó. Sự lí giải của người đàn bà hàng chài trước tòa án huyện “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi cho con đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó!… vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Phải nói rằng, cái ngôn ngữ mà người đàn bà hàng chài đưa ra để giải thích lí do đối với chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng; dù không hoa mĩ, cầu kì, sắc sảo nhưng nó chứa đầy sức thuyết phục. Vì đó là ngôn ngữ của người đàn bà hàng chài, nó bình dị gần với cuộc sống đời thường nhưng mang đậm triết lí sâu sắc. Bởi đó là thực tế cuộc sống mà chỉ có họ mới là người nếm trải, lại thấm thía và thấu hiểu mà không ai có thể làm thay được. * Giọng điệu Sau năm 1975, khi chiến tranh đi qua, nhịp sống đời thường trở lại với tất cả những biểu hiện phong phú của đời sống ích kỉ, vị tha, cao thượng, thấp hèn, phàm tục…Văn xuôi từ chỗ “phản ánh hiện thực” đến chỗ “nghiền ngẫm hiện thực”, đi vào tìm hiểu “toàn bộ chiều sâu của tâm hồn con người”.Vì thế văn chương không thể chỉ có cảm xúc ngợi ca mà còn có đối thoại, đó chính là biểu hiện của mối quan hệ bình đẳng giữa nhà văn và độc giả. Thời kì này, nhà văn nhìn cuộc sống qua lăng kính đời tư, thế sự, quan tâm đến con người ở tư cách cá nhân. Từ giọng điệu trang trọng sử thi, sắc bén họ chuyển dần sang giọng điệu tâm tình, gần gũi, giản dị của đời thường. Con người không chỉ là đối tượng để ngợi ca mà còn là tiêu điểm để nhà văn khai thác bề sâu tâm hồn. Nếu như trước 1975, nhà văn ngợi ca những con người, những sự kiện mang tầm vóc sử thi thì sau 1975, tác phẩm truyện ngắn tập trung ngợi ca những con người bình dị, hồn nhiên thể hiện niềm tin của tác giả vào con người và cuộc đời. Việc ngợi ca đức hi sinh cao cả của người phụ nữ làm nghề chài lưới trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã cho thấy thái độ trân trọng, thấu hiểu và cảm thông của nhà văn đối với nhân vật mình. Hay trong truyện ngắn Một người Hà Nội, Nguyễn Khải đã cho thấy trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử nhân vật cô Hiền vẫn mãi là “hạt bụi vàng” giữa đất kinh kì “chói sáng những ánh vàng”. 4. Cốt truyện, kết cấu của tác phẩm * Cốt truyện Khi tìm hiểu tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, để giúp HS nắm được sự phát triển của cốt truyện, GV có thể yêu cầu HS kể lại tác phẩm sau khi đã đọc. Khi kể, các em có thể trình bày một cách chi tiết hoặc sơ lược, nhưng miễn là giới thiệu được câu chuyện xoay quanh phát hiện của nghệ sĩ Phùng và cuộc sống của gia đình hàng chài. Qua đó, nhà văn gửi gắm quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Nắm được cốt truyện tức là giúp HS củng cố được tri thức văn học đồng thời trau dồi năng lực tư duy, ngôn ngữ, phát triển năng khiếu thẩm mĩ cho HS. Điều quan trọng để nắm vững cốt truyện trong tác phẩm là phân tích các chặng đường phát triển chủ yếu của đó sẽ tạo ở các em một ấn tượng hoàn chỉnh về hình tượng tự sự ở trong tác phẩm. Nắm vững cốt truyện là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình hướng dẫn HS tìm hiểu những yếu tố về nghệ thuật của truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 ở trường phổ thông. * Kết cấu Truyện ngắn từ sau năm 1975 đã không chịu đầu hàng trước hiện thực phức tạp, đa chiều của cuộc sống; đã đem lại nhiều kiểu kết cấu hết sức đa dạng, phong phú và linh hoạt. Đó là kiểu kết cấu tâm lí, giúp nhà văn có điều kiện thâm nhập vào thế giới bên trong của tâm hồn con người mà không cần nhiều lời. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh cuộc sống của gia đình người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa và những sinh hoạt quen thuộc dường như đã trở thành “nếp” trong gia đình cô Hiền trong Một người Hà Nội; tưởng chừng như rất đơn giản nhưng trong đó chất chứa bao nỗi niềm trăn trở của nhà văn về con người và cuộc sống. Dường như tác giả muốn trao quyền kết luận cho người đọc qua việc sử dụng lối kết cấu độc đáo này. Hay ở phần kết tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, hình ảnh người đàn bà “bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”. Hình ảnh ấy gợi cho người đọc cảm nhận được rằng “người đàn bà” hòa lẫn trong đám đông ấy phải chăng còn bao số phận khác như người đàn bà hàng chài này chăng? Cuộc đời họ rồi sẽ đi về đâu… Kết cấu đó cũng gợi mở nhiều vấn đề, tạo ra nhiều khoảng trống để người đọc cảm nhận và giải mã khoảng trống đó. 5. Nhân vật trung tâm Khi tìm hiểu nhân vật trung tâm trong truyện ngắn, cần dựa vào các yếu tố lai lịch, ngoại hình, gốc gác, ngôn ngữ, nội tâm, cách ứng xử, cử chỉ, hành động của nhân vật. Phân tích, tìm hiểu nhân vật cô Hiền trong truyện ngắn Một người Hà Nội đã cho thấy Điều mà tác giả quan tâm và tập trung thể hiện ở nhân vật cô Hiền chính là vẻ đẹp của một lối sống, nhân cách người Hà Nội, “một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn”, như chính lời của người kể chuyện nói về nhân vật. Truyện đưa ra nhiều chi tiết sự việc về nhân vật cô Hiền, nhưng chung quy lại vẫn là ở hai mối quan hệ chính gia đình và xã hội, với cách mạng. Với tư cách là người mẹ, người chủ gia đình, hay một công dân, ở nhân vật cô Hiền đều toát lên một vẻ đẹp của nhân cách, của lối sống văn hoá, của một bản lĩnh. Đó là con người luôn giữ vững những quan niệm và cách sống của mình, không bị biến suy theo những đổi thay của thời cuộc, lại tỉnh táo sáng suốt, không xu thời nhưng cũng không để bị rơi vào tình thế của kẻ lạc thời. Sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, giàu có; thời trẻ cô Hiền được cha mẹ cho phép mở một xa lông văn chương, nơi gặp gỡ của nhiều văn nhân nghệ sĩ có tiếng của đất Hà thành. Như thế, cô thuộc thế hệ tân tiến trong lớp thanh niên thành thị thời trước cách mạng. Nhưng việc cô lấy chồng lại chọn “một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc”. Điều đó thể hiện rõ sự lựa chọn tỉnh táo và những quan niệm nghiêm túc của cô về hôn nhân và gia đình. Nhưng việc dạy dỗ con cái của cô là nhằm hướng tới cái quan trọng nhất trong nhân cách một con người… 6. Tình huống truyện Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa thuộc loại tình huống cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lí của nhân vật. Điều đó thể hiện rõ nét thông qua quá trình nhận thức khá quanh co và được “vỡ ra” từ hiện thực cuộc sống của nhiếp ảnh Phùng và chánh án Đẩu. Để có được một tấm lịch nghệ thuật thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng phòng, nhiếp ảnh Phùng tới một vùng biển vốn là chiến trường cũ của anh. Và mất mấy ngày “săn tìm”, anh mới “chộp” được một tấm hình như ý. Đó là một sản phẩm quý hiếm của hóa công mà trong đời người nghệ sĩ không phải khi nào cũng có được. Nó giống như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Phùng trở nên bối rối và “trong tim như có cái gì bóp thắt vào”. Anh cảm thấy mình vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nhưng bước ra từ chiếc thuyền là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một gã đàn ông to lớn dữ dằn; một cảnh tượng tàn nhẫn gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo; đứa con thương mẹ đã đánh lại cha. Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ, như “chết lặng”, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt. Tuy nhiên, đó mới là phần khởi đầu của truyện cũng như của tình huống. Cuộc tiếp xúc giữa chánh án Đẩu và người đàn bà hàng chài đẩy tình huống truyện lên tầm cao của giá trị nhận thức. Theo lời mời của chánh án Đẩu – người có ý định khuyên bảo, thậm chí đề nghị người đàn bà ấy từ bỏ lão chồng vũ phu. Nhưng trước toà án, chị ta đã từ chối quyết liệt với những lí do không khỏi Phùng và Đẩu “đau đầu” suy nghĩ Đó là vì gã chồng ấy là chỗ dựa quan trọng của những đàn bà hàng chài như chị, nhất là khi biển động, phong ba. Hơn thế nữa, chị còn có những đứa con, chị phải sống vì chúng nhiều hơn là cho bản thân chị. Và quan trọng hơn là trên thuyền cũng có những lúc vợ chồng, con cái sống hoà thuận, vui vẻ… Như vậy, tình huống truyện trong Chiếc thuyền ngoài xa giống như một vòng tròn đồng tâm mà người nhiếp ảnh Phùng cũng như chánh án Đẩu đều phải trải qua một quá trình nhận thức để đạt đến trạng thái “đốn ngộ” cho tâm hồn. Nguồn Dẫn theo bài viết HƯỚNG DẪN HỌC SINH VẬN DỤNG THI PHÁP HỌC VÀO DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU NĂM 1975 của Chu Đình Kiên, Trần Thị Hương
truyện ngắn việt nam sau 1975